Ca Trù
là
bộ môn nghệ thuật mang tính hàn lâm, được nuôi dưỡng giữ gìn trong dân
gian suốt 10 thế kỷ qua. Nhiều làng quê ở các tỉnh, thành thuộc đồng bằng
Bắc bộ như Hà Nội (Phường
Thái Hà), Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc... là những cái nôi của các
làn điệu ca trù. Làng Lỗ Khê (Đông Anh - Hà Nội) dân cả làng làm nghề hát
ca trù, kể cả khu vực Bắc miền Trung là làng Cổ Đạm - Hà Tỉnh.
Thưởng thức ca trù là thưởng thức thơ và nhạc. Trong lối hát
ca trù, cả người hát, người đàn, người thưởng thức đều tham gia cuộc hát.
Họ phối hợp ăn ý với nhau và cũng làm cho nhạc và thơ hoà quyện vào nhau,
đưa cuộc hát đạt đến sự hoàn hảo, tao nhã, trang trọng
Ca trù chỉ một lối hát cổ truyền của người Việt. Tên gọi ca
trù cũng đã được tài liệu cổ ghi nhận. Trên các tài liệu Hán
Nôm chữ “trù” trong “ca trù”
đều dùng chữ “trù”. Theo đó Trù là thẻ làm bằng tre, trên
thẻ có ghi số tiền (hoặc quy định ngầm với nhau là mỗi thẻ
tương ứng với một khoản tiền), dùng để thưởng cho đào và kép
ngay trong khi biểu diễn thay cho việc thưởng bằng tiền mặt;
cuối chầu hát sẽ căn cứ vào số thẻ mà tính tiền trả cho đào
và kép hoặc giáo phường. Người quyết định việc thưởng này
chính là vị quan viên (khách nghe hát), sử dụng trống chầu (gọi
là cầm chầu). Đó là nguồn gốc của tên gọi ca trù; cũng là
thuật ngữ sử dụng trong chuyên khảo này. Tuy nhiên ca trù,
với ý nghĩa là một lối hát có dùng thẻ để thưởng như đã nói
ở trên thì chỉ có ở hát ca trù ở đình đền, tức là hát thờ.
Ca trù sử dụng ba nhạc
khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn về cách thức diễn
tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học ca trù
làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói. Đây là
một bộ môn nghệ thuật ca nhạc “thính phòng” được hình thành
trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc bộ, người nghe cũng tham
gia vào cuộc hát bằng việc cầm chầu. Ca trù còn có những cái
tên khác như: hát cửa đình, hát nhà trò (hát ở đình, đền,
miếu), hát cửa quyền (trong cung phủ), hát nhà tơ (hát ở
dinh quan, tư gia các gia đình quyền quý), hát ả đào, hát cô
đầu (hát ở các ca quán)...
Ca trù gắn liền với nghi
thức tế thần ở các đình làng, ngoài những điệu hát còn có
các nghi lễ với vũ điệu và cả các cách thi tuyển tại đình
làng trong dân gian nên các lề lối biểu diễn ca trù được gọi
là thể cách. Thể cách ca trù vừa bao gồm làn điệu, vừa bao
gồm các hình thức diễn xướng khác như múa, biểu diễn kỹ
thuật nghề (đàn, trống). Trong 49 tài liệu Hán Nôm có liên
quan đến ca trù được khảo sát trong có 8 bản mang tên Ca trù
thể cách. Các học giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong
sách Việt Nam ca trù biên khảo cũng gọi là các thể ca trù.
Nhiều nhà nghiên cứu đã
khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ thuât lâu đời, độc đáo
và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt
Nam. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn
chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Do
vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu
các giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam.
Ca trù là một DI SẢN VĂN
HÓA ĐẶC SẮC của Việt Nam. Đặc sắc ở sự phong phú làn điệu,
thể cách, cả không gian, thời gian biểu diễn và phương thức
thưởng thức; đặc sắc còn vì từ cội nguồn nó gắn bó mật thiết
với lễ nghi, phong tục, với sinh hoạt cộng đồng. Ca trù làm
người ta nhớ tới những tao nhân mặc khách với lối chơi ngông,
chơi sang, rất tinh tế và giàu cá tính sáng tạo của những
danh nhân như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh,
Tản Đà…Và cùng với đó là mối quan hệ giữa văn nhân (nhà thơ,
nhà báo, họa sĩ) với Ả đào - mối quan hệ quan trọng nhất của
lối thưởng thức ca trù. Bởi quá trình tham gia sinh hoạt ca
trù là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và thưởng
thức các tác phẩm của mình.
|
Bức chạm nhạc công
ca trù đền Lê Khôi
(Thạch Hà, Hà Tĩnh).
Thế kỷ XVIII.. Ảnh
Đặng Hoành Loan |
|
|
|
Sau năm 1945, trong một
thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã và sang trọng
trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt
thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội
chối bỏ và quyết loại sinh hoạt ca trù ra khỏi đời sống văn
hóa. Ca trù đã không được nuôi dưỡng và phát triển một cách
tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại
thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải
cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình.
Khoảng chục năm trở lại đây dư luận xã hội và các cơ quan
thông tấn báo chí đã từng lên tiếng về nguy cơ thất truyền
của ca trù. Nguy cơ mai một dần và vĩnh viễn mất đi ca trù
là một nguy cơ có thực, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng
sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn ca trù như một vốn quý văn hóa
của dân tộc. Do vậy việc cung cấp những hiểu biết sâu hơn và
có căn cứ về một số vấn đề của ca trù, không những góp phần
đáp ứng yêu cầu cấp thiết ấy mà còn góp phần vào việc phục
hồi và chấn hưng nghệ thuật và sinh hoạt ca trù.
Theo Viện
âm nhạc VN và vietsciences.org
Tham khảo:
Vĩnh Phúc,
Hát Ả Đào qua báo chí hậu bán TK XX |