Các vùng Văn hóa
   Vùng miền - Thể loại

* Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ

* Hát Xoan và các loại khác

* Hát Quan họ

* Dân ca miền núi phía Bắc

* Dân ca các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên

* Dân ca Bắc Trung Bộ

* Dân ca Nam Trung Bộ

* Dân ca Nam Bộ

* Ca nhạc Tài tử

* Hò sông Mã

* Ví Dặm Dân ca Nghệ Tĩnh

* Dân ca Chăm

* Hát Sắc bùa Quảng Ngãi

*  Ca Trù - Hát Ả Đào

Tháng Mười 13, 2020
 

DÀN NHẠC CỔ TRUYỀN DÂN GIAN

DÀN NHẠC SÂN KHẤU RÔBĂM

Dàn nhạc sân khấu Rôbăm của người Khơme Nam Bộ chỉ có hai họ nhạc cụ là nhạc cụ hơi và nhạc cụ gõ. Nhạc cụ hơi có kèn Scơlai hay còn gọi là kèn Payo hoặc Pâyê; nhạc cụ gõ có trống Scor Chớt, Cuông (cồng), Cráp (thanh la). Đây là những nhạc cụ có cường độ âm thanh lớn, có kịch tính cao, rất phù hợp với lối diễn của sân khấu Rôbăm - một sân khấu diễn tích truyện bằng múa, hát, nhân vật ăn mặc phục trang hết sức lộng lẫy.
Hầu hết các vở diễn đều dựa vào các truyện dân gian hoặc sử thi ấn độ. Các nhân vật trong chuyện bao giờ cũng được chia thành hai tuyến rõ rệt là tuyến nhân vật chính nghĩa và tuyến nhân vật phi nghĩa. Tuyến nhân vật chính nghĩa là những ông Hoàng bà Chúa khi diễn không đeo mặt nạ. Tuyến nhân vật phi nghĩa là ma quỷ độc ác khi diễn đeo mặt nạ. Hai tuyễn nhân vật luôn mâu thuẫn nhau, xung đột nhau gây ra những tình huống kịch căng thẳng được biểu diễn chủ yếu bằng nghệ thuật múa và hát. Và cũng chính vì vậy sân khấu này phải dùng tới những nhạc cụ có đủ khả năng tham gia vào các xung đột kịch - nhạc cụ hơi và nhạc cụ gõ như đã trình bày ở trên.

 

DÀN NHẠC CHÈO

Chèo là loại hình sân khấu dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Năm thành tố quan trọng cấu tạo thành Chèo gồm: Trò chèo, hát chèo, nhạc chèo, múa chèo và diễn chèo.

Dàn nhạc chèo đóng vai trò quan trọng cho biểu diễn và ca hát của diễn viên. Vì vậy thành phần các nhạc cụ dàn nhạc tương đối phong phú. Dàn nhạc chèo gồm có các nhạc cụ gõ và các nhạc cụ ti, trúc như sau: Nhạc gõ có trống đế, trống cơm, trống ban, trống bộc, trống cái, mõ, thanh la, chuông, tiu, cảnh, não bạt, sinh tiền. Nhạc ti trúc có: Nhị, hồ, nguyệt, tam, bầu, tam thập lục, tiêu, sáo. Tuỳ vào các tình huống của câu chuyện kịch mà người ta sử dụng nhạc cụ khác nhau cho phù hợp.

 

DÀN NHẠC HẦU BÓNG (HẦU VĂN)

Tín ngưỡng Tứ Phủ là tín ngưỡng bản địa của người Việt. Tín ngưỡng này có rất nhiều nghi lễ, lễ hội phong phú, đa dạng đến phức tạp, nhưng điển hình trong các hình thức nghi lễ đó là nghi lễ Hầu Bóng.
Hầu bóng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác người làm Đồng. Khi các vị Thánh đã nhập đồng thì Đồng chính là Thánh hiển linh để phán truyền, ban phúc cho các tín dân. Để phục vụ cho nghi lễ quan trọng này người ta đã sáng tạo ra một hình thức ca nhạc gọi là Hát Văn, cùng một dàn nhạc đệm cho Hát Văn và phục vụ quá trình nhập đồng hiển thánh. Dàn nhạc ấy gọi là dàn nhạc Hầu Bóng. Dàn nhạc hầu bóng gồm có 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 1 sáo, 1 trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cảnh đôi, 1 phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc Hầu Bóng.

Ở Huế thường gọi là Hầu văn. Cứ đến đầu tháng Ba âm lịch là đông đảo nhân dân theo tín ngưỡng Thiên Tiên thánh giáo ở nhiều địa phương như: thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng và đông nhất là thành phố Huế, lại tề tựu tại điện Hòn Chén để tổ chức lễ hội hầu đồng Thánh Mẫu Thiên Yana.
Điện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chăm thờ nữ thần Po Nagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên thánh giáo tiếp tục thờ bà dưới danh xưng Thánh Mẫu Thiên Yana. Từ năm 1954, Liễu Hạnh công chúa, tức là Vân Cát Thánh Mẫu, gốc gác từ miền Bắc, cũng được đưa vào thờ ở đây. Theo truyền thuyết địa phương, một trong những nơi Liễu Hạnh công chúa đã xuất hiện giúp đời là núi Ngọc Trản, thuộc làng Hải Cát ở tỉnh Thừa Thiên. Dân làng dựng lên một ngôi đền tại hòn núi này để thờ bà.

Điện Hòn Chén trong ngày hội hầu đồng Thánh Mẫu

 

DÀN NHẠC SẮC BÙA

Thuở xưa vào đêm 30 tết (đêm trừ tịch) đêm tối trời nhất trong năm, nhà nhà đóng kín cửa, vẽ vôi đầy sân để xua đuổi tà ma. Vào giờ ngọ đêm ấy phường bùa thổi kèn, gõ trống đi đến từng nhà xin vào hát múa đuổi tà ma, trẩn bùa giữ yên thổ trạch. Sáng mùng một nhà nhà thảnh thơi đón xuân, đón lại phường bùa vào ca hát chúc phúc, chúc xuân.
Phường bùa là một tổ chức nghệ thuật bao gồm một ông trưởng phường và các diễn viên múa, nhạc. Tùy vào từng địa phương, vào khả năng tổ chức nghệ thuật và sáng tạo nghệ thuật của ông trưởng phường mà số diễn viên có thể có nhiều hay ít.
Để phục vụ cho cả quá trình biểu diễn nghệ thuật, phường bùa có một tổ chức dàn nhạc gồm 1 kèn dăm, 1 đàn nhị và một dàn nhạc cụ gõ gồm trống cơm, trống con, sênh, sinh tiền là những nhạc cụ gọn nhẹ dễ dàng khi vận chuyển. Dàn nhạc làm nhiệm vụ tấu nhạc khi đi đường, đệm cho ông trưởng phường hát chúc phúc, đệm cho các điệu múa như múa bông, múa đèn, múa bỏ bộ, múa sênh tiền.

 

DÀN NHẠC CHĂM (NINH THUẬN)

 

Kèn Xaranai, đàn vĩ kéo Ka Nhi, trống vỗ Paranưng, trống gõ vỗ Ghì nằng là những nhạc cụ dùng rất phổ biến ở người Chăm Ninh Thuận. Những nhạc cụ này có lúc dùng đơn lẻ đệm cho hát lễ, hát sinh hoạt; có lúc kết hợp các nhạc cụ thành một dàn nhạc dùng trong các cuộc hành lễ lớn diễn ra hàng năm. Vào thời điểm ấy dàn nhạc đã bộc lộ rất rõ chức năng quan trọng của nó trong lễ hội như tham gia vào quá trình hành lễ, tham gia đệm cho hát, múa nghi thức và tham gia vào các trò vui trong hội.
Nhạc cụ Chăm, dàn nhạc Chăm là dàn nhạc và nhạc cụ có tính chuyên nghiệp cao, muốn chơi được những nhạc cụ ấy, người ta phải mất nhiều năm khổ luyện và khi đã được chấp nhận là người chơi thành thạo, thì họ được mang tên gọi riêng như ông Dú (người thổi Kèn), ông Mưtuồn (người đánh trống Paranưng), ông Toong người đánh trống Ghì nằng

 

DÀN CỒNG TÂY NGUYÊN

Dàn cồng dân tộc Giẻ Triêng

Dàn cồng dân tộc Êđê

1. Dàn “Chinh Soang” [1]: phổ biến ở các dân tộc Bahnar, Giơ rai, rơ ngao, Rơ mǎm, Hà lǎng, Sơ dra, Mơ nâm[2]... ở mỗi dân tộc dàn cồng còn có những tên gọi riêng. Thí dụ người Giơ rai gọi là chinh Arap. Người Bahnar gọi là chinh chêng, ching Honh. Người Hà Lăng gọi là Ktum goong chinh... Cơ cấu thông thường của dàn gồm 5 cồng, 8 chiêng, 1 trống cái, 1 vài cặp chũm choẹ nhỏ. Diễn tấu cùng dàn cồng còn có một dàn múa nữ và 3 hoặc 4 diễn viên hề. Số lượng cồng, chiêng có thể thay đổi nhưng tối thiểu phải có 3 cồng, 5 chiêng; tối đa là 7 cồng, 8 chiêng. Số diễn viên múa không cố định, có thể từ 10 đến 30 hoặc 40 người. Cồng lớn nhất đường kính khoảng 65 cm; đường kính chiêng nhỏ nhất khoảng 20 cm. Cao độ âm thanh của các cồng là: Rề - La - Rê - La - Rế1
Cao độ âm thanh của nhóm chiêng là:
Đô1 - Rê1 - Fa1 - Sol1 - La1 - Đô2 - Rê2 - Mi2.
Tương quan cao độ của các cồng, chiêng trong dàn luôn luôn ổn định. Sự khác nhau giữa các dàn cồng loại này có chăng cũng chỉ là sự di chuyển vị trí cao độ của từng chiếc trong dàn cùng lên hoặc cùng xuống một quãng nhất định mà thôi.
Người diễn tấu cồng, chiêng bao giờ cũng là con trai. Họ có thể ở các lứa tuổi khác nhau. Khi chơi mỗi người một chiếc. Tay trái xách chiêng, cồng, quay mặt cồng chiêng hướng về bên phải, thành cồng hướng vào bụng, tay phải cầm dùi. Các diễn viên múa là gái chưa chồng, còn các vai hề do đàn ông đóng. Dàn nhạc bố trí theo đội hình hàng một, người nọ cách người kia khoảng một mét đi thẳng, đi vòng tròn hoặc đứng yên tuỳ theo nghi thức của môi trường sử dụng. Trống bao giờ cũng dẫn đầu, tiếp đến cồng, chiêng, sau cồng chiêng đến chũm choẹ, cuối cùng đến dàn múa. Hề đứng ở các vị trí tự do.
Âm nhạc của dàn “chinh soang” trữ tình, uyển chuyển.
Dàn “ching soang” chỉ được sử dụng trong các lễ hội cổ truyền. như lễ ăn cơm mới, lễ dựng nhà, lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ mả... Trong lễ hội đâm trâu phần nghi thức, dàn chiêng không kết hợp với đội múa nữ (soang) mà kết hợp với điệu múa khiên của các nam chiến binh. Âm nhạc cồng lúc này thôi thúc, dồn dập, hừng hực, tốc độ nhanh và cường độ lớn.

2. Dàn “Guông”: Phổ biến ở vùng người Sêd’ra (huyện Sa thầy tỉnh Kontum) và M’nâm (huyện Kon plông tỉnh Kontum) Đây là hòa tấu nhạc gồm 4 cồng núm (đường kính chiếc to nhất khoảng 50 cm, chiếc nhỏ nhất khoảng 20 cm), 1 đàn “Khinh Khung”, 1 kèn “Kvôh”, 1 trống cái và 1 người hát.
Đàn “Khi khung” là loại nhạc cụ tự thân vang, chi gõ, làm bằng nứa, gồm 2 ống: ống dài khoảng 50 cm, ống ngắn dài khoảng 30 cm. Mỗi ống đều có một đầu rỗng, một đầu kín. “Khi khung” được làm theo nguyên tắc của đàn T’rưng. Tức là người ta gọt vạt từ điểm giữa của ống cho thuôn hẳn nhọn dần xuống phía đầu rỗng. Hai ống nối với nhau bằng dây mây. Hai ống “Khi khung” cho hai âm cách nhau một quãng 4 (La - Rê). Khi chơi tay trái cầm đàn, tay phải cầm dùi gõ đều đặn vào 2 ống.
Kèn “Kvôh” là loại sáo ngắn, thổi ngang, làm bằng 1 ống nứa rỗng hai đầu. Chiều dài ống khoảng 20 cm, đường kính ống khoảng 2,5 cm. ở giữa ống khoét 1 lỗ hình vuông gắn lưỡi gà (một miếng kim loại mỏng) để thổi. Khi thổi dùng 2 tay bịt 2 đầu ống và điều khiển đóng, mở sao cho có được những âm thanh khác nhau theo ý muốn.
Dàn “Guông” chỉ chơi trong nhà. Tất cả cồng và trống đều được treo lơ lửng ở gian phòng khách. Nhạc công chơi cồng thường là phụ nữ và bao giờ cũng diễn tấu ở tư thế ngồi gõ cồng. Mỗi người đảm nhận 1 chiếc. Cao độ âm thanh của các cồng trong dàn “Guông” định âm theo tương quan quãng 5 - quãng 4 - quãng 8 (Rê - La - Rê1 - Rê2) hoặc tương quan quãng 5 - quãng 4 - quãng 5 ( Rê - La - Rê1 - La1). Đôi khi còn có dàn “Guông” có cao độ các cồng quan hệ theo tương quan quãng 4 - quãng 2 - quãng 4 (Rê - Sol - La - Rê1).
Trong dàn Guông âm thanh của cồng đĩnh đạc, trầm ấm. Âm thanh cồng cùng với “Khi khung” tạo nên một bè nền trì tục đệm cho người hát và giai điệu của kèn “Kvôh”.
Dàn Guông được diễn tấu trong những ngày lễ cổ truyền như: Lễ trỉa lúa thiêng, lễ ăn cơm mới, lễ đâm trâu tạ thần cầu an, lễ dựng nhà, lễ cưới... Dàn Guông không diễn tấu trong lễ tang.

3. Dàn “Chinh goong” của dân tộc Hơrê (huyện Sơn trà tỉnh Nghiã bình). Dàn gồm 3 chiếc chiêng bằng và 1 chiếc trống nhỏ hình trụ. 3 chiếc chiêng này có tên gọi là Vơng chinh, Tôm chinh, Tôôk chinh và kích thước của chúng xấp xỉ băng nhau với đường kính khoảng từ 37 đến 39 cm. Cao độ âm thanh của “Chinh goong” Hơrê không định âm. Tuy vậy “Vơng chinh” có có cao độ thấp hơn “Tôôk chinh”, nhưng tương tương quan này cụ thể bao nhiêu thì người Hơrê không đặt ra. “Tôm chinh” có âm phát ra nghe ở gần như một tiếng động khô khốc, cao độ không rõ ràng và là âm cao nhất trong dàn. Khi diễn tấu mọi người đều ngồi và không dùng dùi để chơi cồng. Cách trình diễn “chinh goong” Hơrê rất độc đáo. Nhạc công đều là đàn ông, họ chơi cồng bằng tay và trên mỗi chiếc chiêng đều có một lối diễn tấu riêng. Chiếc “Tôôk chinh” được treo lên, người chơi quấn một chiếc khǎn vào bàn tay phải rồi nắm chặt đánh nảy từ tâm mặt chiêng lệch sang cạnh mặt chiêng, còn tay trái ngắt âm ở mặt sau. Người chơi “Vơng chinh” cầm chiêng đứng dọc theo bụng, tay phải nắm chặt đánh vào gần tâm điểm mặt chiêng cho vang đủ một trường độ qui định thì cả 2 tay cùng làm động tác ngắt tiếng. Người diễn tấu “Tôm chinh” để chiêng nằm úp trên đùi, ngồi xếp chân vòng tròn. Tay trái xoè bàn tay đặt sẵn trên mặt chiêng. Khi tay phải nắm lại vừa đánh vào tâm điểm mặt chiêng thì ngay lập tức tay trái nhấc lên rồi đặt xuống ngay, đồng thời tay phải cũng làm động tác ngắt tiêng luôn, không cho âm ngân nga. Âm nhạc của dàn “chinh goong” có tiết tấu sôi động. Người chơi càng diễn tấu với tốc độ nhanh càng được coi là tài nghệ.
Dàn “chinh goong” Hơrê chỉ trình diễn trong những dịp vui, lễ hội với vai trò độc tấu hoặc làm nhạc nền cho điệu hát “Ka choi” cổ truyển. Trong lễ tang người Hrê không tấu “chinh goong”.

4. Dàn chiêng “Knăh” của dân tộc Êđê (vùng Buôn Ma Thuột, Krông Păk, Kpông Buk, Ea Sup, Mad’rak thuộc tỉnh Đăk lăk)
Dàn gồm có 2 cồng núm, 7 chiêng bằng và 1 trống. Trong đó chiếc to nhất có đường kính khoảng 75 cm, chiếc nhỏ nhất có đường kính khoảng 30 cm.
Cao độ âm thanh của các dàn chiêng “Knăh” không đồng nhất, mỗi dàn có một thang âm riêng. Mỗi chiếc trong dàn đảm nhận một dạng tiết tấu qui định nên khi hòa tấu tạo ra hiệu quả âm nhạc đa tiết tấu rất sinh động, dồn dập, thôi thúc.
Dàn “Knăh” chỉ được chơi ở trong nhà và do đàn ông diễn tấu. Tất cả nhạc cồng đều ngồi trên ghế dài (Kban) để đánh cồng, mặt quay về hướng mặt trời mọc. Cách bố trí dàn cồng trong nhà theo một qui định chặt chẽ: 1 chiếc cồng núm lớn nhất và một chiếc chiêng bằng lớn nhất được treo lên về phía trái nhà; tiếp đến 6 chiêng bằng còn lại xếp cạnh nhau, cái to trước, cái nhỏ sau, người chơi đặt chiêng nằm trên đùi và dùng dùi gỗ gõ vào mặt trong của chiêng. Sau 6 chiếc chiêng bằng là chiếc cồng thứ hai, người chơi đặt chiếc cồng này nằm trên mặt sàn nhà, dưới lót đệm vải hoặc đệm bông gòn và dùng dùi có bọc vải ở đầu để gõ. Trống xếp ở vị trí cuối sau dàn chiêng.
Dàn chiêng “Knăh” là một thành phần không thể thiếu trong các ngày lễ hội cổ truyền của người Êđê.

5. Dàn chiêng “Hnìh” của dân tộc Giẻ Triêng (vùng Đaklây tỉnh Kontum) Dàn “Hnih” gồm 3 chiếc chiêng bằng và 1 chiếc “đuk dik”. Đây là dàn nhậc có định âm. “Đuk dik” là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ, đượclàm từ một ống nứa có một đầu rỗng, một đầu kín. “Đuk dik” được làm theo nguyên tắc của đàn T’rưng, tức là người ta gọt vát từ điểm giữa ống cho thuôn hẳn và nhọn dần xuống phía đầu rỗng.
Ba chiêng bằng có đường kính chiếc to nhất khoảng 55 cm, cái nhỏ nhất đường kính khoảng 35 cm. Tương quan cao độ của các chiêng là: Quãng 8 - quãng 8 (La - La - La1). Đuk dik có cao độ tương quan với chiêng cao nhất một quãng 5 (Rê1).
Người diễn tấu chiêng “Hnih” bao giờ cũng là con trai. Khi chơi mỗi người một chiếc, tay trái xách chiêng, tay phải cầm dùi gõ. Dàn chiêng xếp theo hàng một, chiêng đi trước, “Đuk dik” theo sau. Người diễn tấu ở tư thế hơi khom lưng, vừa đi vừa múa lắc lư theo nhịp chiêng. ứng với mỗi nghi thức của từng hội lễ dàn Hnih còn có thể diễn tấu kết hợp với múa, hát và các trò diễn dân gian khác nhau.
Dàn Hnìh diễn tấu trong các ngày lễ đâm trâu, ăn tết, mừng nhà mới, lễ ăn cơm mới.

 [1] Tên dân gian “chinh” là chiêng; “soang” là múa.

 [2] Bahnar (huyện An Khê tỉnh Gia lai), Jơ rai (huyện Ayunpa, Chưpăh tỉnh Gia lai và Kontum), R’măm, Hà lăng, Sêd’ra (huyện Sa thầy tỉnh Kontum), M’nâm (huyện Kon plông tỉnh Kon tum) v.v...

 

DÀN CỒNG SẮC BÙA MƯỜNG

 

 

 

 

 

Dàn cồng sắc bùa Mường gồm nhiều chiếc cồng. Dựa vào chức năng âm nhạc người ta đặt riêng cho từng chiếc cồng hoặc từng nhóm cồng như:
- Chiêng Cái hoặc chiêng Gọi là chiếc cồng đánh mở đầu bài nhạc cồng.
- Chiêng Boòng Beng là một đôi cồng cỡ nhỏ có âm vang cao nhất.
- Chiêng Đủm là đôi cồng trung.
Chiêng Boòng Beng và chiêng Đủm diễn tấu giai điệu. Có nơi gọi 4 chiếc này là chiêng Đom hoặc chiêng Dóng.
- Chiêng Dàm là chiếc cồng to có âm trầm nhất.
- Chiêng Khộ là nhóm cồng to, có âm trầm, tham gia diễn tấu chùm âm bè nền.
Cồng Mường Hòa Bình là loại nhạc cụ tự thân vang, bằng đồng. ở thành cồng có hai lỗ để luồn dây quai. Kích cỡ các ống to nhỏ khác nhau. Loại nhỏ có đường kính khoảng 20 cm, nặng 0,7 - 0,8kg. Loại to có đường kính 50 - 60 cm, nặng 5 - 6 kg. Số lượng đầy đủ của dàn cồng xưa là 12 chiếc. Ngày nay ta thường gặp những dàn cồng có số lượng ít hơn.
Hàng âm của các dàn cồng Mường không đồng nhất, tổ chức cao độ trong hàng âm giữa các dàn không cố định. Có nghĩa là mỗi dàn cồng có một hàng âm riêng. Những chiếc cồng trầm (chiêng Dàm) là những chiếc cồng không định âm. Còn những chiếc cồng cao (chiêng Dóng) có độ cao tương đối, cách nhau từ quãng 2 đến quãng 4.
Âm chất của cồng có mầu sắc kim khí, ngân nga, vang xa. Với cường độ lớn, âm thanh cồng nổi rõ bồi âm, cồng càng trầm bồi âm càng rõ. Những cồng đánh giai điệu (chiêng Dóng) có âm thanh thánh thót, tươi sáng. những chiêng Dàm đánh bè đệm có âm thanh ấm, nặng nề, hùng tráng, ngân xa.
Dàn cồng sắc bùa Mường do các nữ cồng đánh và một người đàn ông (gọi là thầy Thường) tham gia hát. Khi diễn tấu mỗi người xách một cồng xếp theo hàng một vừa đi vừa đánh cồng. Thầy Thường đi trước, cuối hàng là một người đi theo để nhận quà tặng. Có thể đứng tại chỗ hoặc ngồi đánh cồng, tùy theo tục lệ của từng lễ thức.

Dàn cồng được người Mường quí trọng, coi như vật gia bảo trong nhà và đem ra trình diễn vào những ngày tết đón xuân với phong tục sắc bùa. Ngoài ra trong ngày lễ cưới, lễ làm nhà mới, đón khách quí v,v... cũng không thể thiếu âm thanh của dàn cồng.

 

DÀN NHẠC ĐÁM CƯỚI NGƯỜI DAO

 

Dàn nhạc đám cưới của người Dao gồm có 3 loại nhạc cụ là 2 chiếc Nom Dặt (người Tày, Nùng, Thái gọi là Pí lè), một chiếc Nom Đủ (trống dẹt) và một cái Nom Lò (chiêng).
Nom Dặt là nhạc cụ họ hơi chi dăm kép, gồm các bộ phận:
- ống kèn là một thân gỗ rỗng lòng, dài khoảng 25 - 30 cm, một đầu nhỏ, đầu kia to dần. Trên thân ống có 7 lỗ bấm thẳng hàng gần như đều nhau ở mặt trước và 1 lỗ phía sau gần đầu ống.
- Loa kèn làm bằng đồng, đường kính khoảng 13 cm gắn vào phần đầu to phía dưới của ống kèn. - Cọc dăm và dăm kèn, phía trên ống kèn (đầu nhỏ) cắm một ống kim loại nhỏ làm cọc dăm, trên cọc dăm cắm một cái dăm làm bằng tổ sâu bóp bẹp để thổi.
Âm vực của Nom dặt trải 2 quãng tám. Khi chơi người thổi hai tay cầm dọc kèn thổi, các ngón tay đặt vào các lỗ bấm.
Nom Đủ là nhạc cụ họ màng rung chi gõ hình tròn dẹt. Thân trống làm bằng khúc gỗ ngắn khoét rỗng bên trong, cao khoảng 14,5 cm, đường kính khoảng 25 cm. Hai mặt trống đều bịt da, ghim vào thân trống bằng những chiếc đinh tre. Dùi trống cũng làm bằng tre. Người chơi có thể đánh vào cả hai mặt trống thay đổi nhau.
Nom Lò là nhạc cụ tự thân vang chi gõ, chất liệu đồng thau kích thước trung bình, đường kính khoảng 30 - 40 cm, thành cao 12 - 14 cm. Dùi làm bằng gỗ để trần hoặc bọc vải ở một đầu. Khi chơi người chơi cầm dùi gõ vào mặt trên của Nom lò.
Các nhạc công chơi trong dàn nhạc đám cưới của người Dao đều là nam giới. Trong đám cưới người Dao không có hát mà chỉ tấu dàn nhạc. Dàn nhạc không chỉ tấu lên để gây không khí vui nhộn, tưng bừng mà còn giữ vai trò quan trọng trong các diễn biến nghi thức phong tục truyền thống. Có thể kể một số bài nhạc chính chơi trong các nghi lễ đám cưới của người Dao như sau:

- Bài nhạc đón dâu

- Bài nhạc mời khách ngồi

- Bài nhạc mời dâu, mời rể ngồi

- Bài nhạc mời ăn cơm, mời uống rượu

- Bài nhạc tiễn khách v,v...

Trong dàn nhạc có sự phân công chức năng: Hai chiếc Nom Dặt chơi đồng âm, đảm nhận phần giai điệu. Nom Đủ (trống dẹt) chơi giữ nhịp và chuyển tiết tấu. Còn Nom Lò (chiêng) điểm dẫn tiết tấu, điểm mầu sắc tiết tấu khi đảo phách, khi đơn lẻ, khi dồn dập, độc đáo làm tăng sự hấp dẫn cho dàn nhạc.

 

DÀN NHẠC SƯ TỬ (Dân tộc Tày-Nùng)

 

Múa sư tử - một sinh hoạt vui chơi trong ngày hội và chúc tết các gia đình nhân dịp năm mới.
Múa sư tử của người Tày - Nùng là hình thức múa trò gồm các trò: bái lạy, chào nhau, sư tử đẻ con, nhảy bàn, múa võ, câu cá... Dàn nhạc đệm cho múa sư tử là các nhạc cụ gõ có cường độ lớn như trống, thanh la, xập xoả. Để phục vụ các trò diễn thì sự ngẫu hứng của dàn nhạc khi diễn tấu là vô cùng quan trọng. Người đánh trống phải nắm bắt nhanh sự chuyển động của động tác múa để sáng tạo kịp thời những tiết tấu phù hợp. Người đánh trống càng giỏi, sự hoà theo của thanh la, xập xoả càng nhịp nhàng thì trò múa càng hấp dẫn.

 

DÀN NHẠC ĐÁM TANG (Các dân tộc thiểu số phía Bắc)

Trong đám tang của các dân tộc thiểu số phía Bắc, dàn nhạc giữ một vai trò quan trọng. Dưới sự điều khiển của thầy mo, tào, dàn nhạc thực hiện các thủ tục hành lễ từ đầu đến cuối đám tang. Dàn nhạc này do đàn ông diễn tấu, biên chế dàn nhạc gồm các nhạc cụ: chuông, trống, thanh la (hoặc chiêng); dàn nhạc của người Tày, Nùng, Thái có thêm chũm chọe, pí lè, sáo, tù và; người Mường có thêm sáo, nhị. Việc sử dụng và số lượng nhạc cụ của mỗi dân tộc có khác nhau, nhưng về đại thể vẫn giống nhau cả mục đích lẫn cách thể hiện. Mở đầu phần tế lễ hoặc những đoạn linh thiêng, thầy mo, tào cúng chỉ dùng chuông, những đoạn cần cường độ âm thanh lớn để đánh thức linh hồn, múa, đưa tang... thì cả dàn nhạc cùng tấu.

 
Nguồn: Viện âm nhạc http:/vienamnhac.vn 

Dàn nhạc Cổ truyền chuyên nghiệp

 
 
Facebook: www.facebook.com/cotruyen.nhac


                                                                    Trở về đầu trang

 

 

© Âm nhạc cổ truyền Việt Nam

 - Email: vinphuc@gmail.com - Design by vinhphucnet

 

Free Web Hosting