|
HỌ DÂY
(Cordophone) |
ABEL
|
|
Abel - nhạc
cụ họ dây, chi cung kéo của dân tộc Cơ Tu, người
Giarai gọi là K'ny, là nhạc cụ dành cho nam giới
sử dụng để đệm cho hát trong sinh hoạt thường
ngày. Abel không có bầu cộng hưởng, thân
Abel được làm bằng một ống nứa nhỏ dài 43 cm,
đường kính 2 cm. 1 cần kéo bằng cật nứa dài 56
cm, 1 dây bằng kim loại mắc dọc theo thân đàn.
Để khuếch đại âm thanh người ta dùng một sợi dây
tơ, một đầu buộc vào dây đàn, đầu kia buộc vào
ảnh sừng trâu bóc mỏng hình tròn gọi là lam đàn.
Khi chơi đàn người ta ngậm toàn bộ lam đàn vào
miệng, lúc này khoang miệng đóng vai trò là bầu
cộng hưởng, kết hợp với giọng hát Abel cho người
nghe một cảm giác âm thanh kỳ lạ.
|
BROH |
|
Broh
là tên gọi nhạc cụ họ dây, chi búng gẩy của dân tộc Giarai. Broh được
cấu tạo từ một quả bầu già và một ống tre lồ ô dài 25 cm nối với một
thanh gỗ khoảng 100 cm, có khoét thành mấu để lắp dây đàn. Thân đàn có
gắn 4 phím bấm bằng sáp ong. Đàn có 2 dây bằng kim loại mắc dọc theo
thân đàn, 2 trục đàn cách nhau 7 cm. Bầu cộng hưởng là 1 quả bầu khô nằm
ở giữa thân đàn. Khi diễn tấu, Broh do một người nam giới ngồi và
đặt quả bầu vào trong lòng, dùng một miếng tre dài 2 cm buộc với một
đoạn cước buộc vào ngón trỏ tay phải để diễn tấu.
Âm thanh của đàn trầm, đục, buồn mang chất tự sự. Khả năng diễn tấu của
Broh linh hoạt, độc đáo. Broh không phải là nhạc cụ kiêng cấm, được
dùng trong lúc tỏ tình bên dòng suối hay trên nương.
|
BRỐ |
|
Brố
là nhạc cụ họ dây, chi búng gẩy phổ biến ở dân tộc Êđê. Brố được làm
bằng một ống tre dài khoảng 109 cm, đường kính 3 cm. Cuối ống đàn người
ta gắn một miếng gỗ nhỏ có lỗ để mắc dây đàn. Đàn được buộc chặt với 1/2
quả bầu già bằng sợi dây vải. Đàn có 5 phím bấm bằng sáp ong và cách
nhau 8 cm. Một đầu ống có2 trục lên dây. Đàn có 2 dây, 1 dây buông và
một dây chơi giai điệu. Hai dây này được lên theo quãng 5. Tiếng Brố
trầm, đục thích hợp với những khúc hát tâm sự, chất trữ tình. Brố là đàn
của nam giới tự đệm khi hát. Khi diễn tấu đàn được cầm ngang, tay phải
của người chơi được buộc vào một miếng sừng nhỏ làm móng gẩy. Đàn dành
riêng cho nam giới diễn tấu và không phải nhạc cụ bị cấm kỵ. Brố dùng
rộng rãi trong buôn làng, đôi khi trên nương rẫy.
|
CÒ KE |
|
Cò ke
là nhạc cụ họ dây, chi cung kéo của dân tộc Mường. Cò ke có hình dáng
giống Đàn Nhị của dân tộc Việt nhưng chế tác thô sơ hơn.
Cần đàn là một đoạn gỗ tròn đường kính 1,5 cm, chiều dài 65 - 78 cm,
phía đầu trên cần đàn có đục hai lỗ để cắm trục vặn dây, đầu còn lại
được cắm xuyên qua bầu cộng hưởng. Bầu cộng hưởng là 1 đoạn ống bương
rỗng cả hai đầu, dài khoảng 13,8 cm, đường kính 5 cm, một đầu được bịt
bằng một mảnh mo bương hoặc da ếch. Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1
cm đặt khoảng giữa mặt da. Cò ke mắc hai dây bằng xơ dứa dại hay tơ tằm
se lại, vuốt nhựa khoai lang. Hai dây lên cách nhau 1 quãng 4 hay quãng
5 (tuỳ theo từng bài). Một sợi dây tơ néo 2 dây vào sát cần đàn gọi là
"cữ đàn" có tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh. Khi đưa cữ đàn
xuống làm ngắn quãng dây phát âm, đàn có âm thanh cao, đẩy cữ đàn lên
làm dài quãng phát âm, đàn có âm thanh trầm. Cung kéo là một cành tre
nhỏ được uốn cong và mắc túm xơ dứa hay những sợi giang tước nhỏ dài
khoảng 53 cm, luồn vào giữa hai dây đàn. Khi diễn tấu người sử dụng
dùng tay phải kéo, đẩy cọ sát dây kéo vào 2 dây đàn để phát âm thanh.
Tay trái bấm dây, với các kỹ thuật ngón rung, vuốt, nhấn, láy... Kỹ
thuật tay phải gồm: Vĩ rời, vĩ luyến, vĩ ngắt. Âm thanh của Cò Ke
ấm, trong trẻo, gần giống tiếng người. Cò Ke là nhạc cụ dùng để hòa
tấu cùng với các nhạc cụ khác trong đám ma và dàn nhạc lễ của người
Mường.
|
ĐÀN BẦU |
|
Đàn
Bầu có tên chữ là Độc Huyền Cầm, là nhạc cụ họ dây chi gẩy
của dân tộc Việt. Đàn có hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Đàn thân tre: là đàn của những người hát Xẩm. Thân đàn làm bằng 1 đoạn
tre hoặc bương dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn là chỗ đã
được lóc đi một phần cật thích hợp trên đoạn tre hoặc bương. Đàn hộp
gỗ là loại đàn cải tiến sau này, dùng cho các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đàn
hộp gỗ có nhiều hình dáng, kích thước khác nhau. Loại phổ biến nhất là
loại hình thang có chiều dài khoảng 115 cm. Đầu lớn rộng 10 cm, cao 9
cm, đầu nhỏ rộng 8 cm, cao 7 cm. Mặt đàn cong làm bằng loại gỗ nhẹ, xốp
như gỗ Ngô Đồng, gỗ Vông. Đáy đàn phẳng cũng làm bằng gỗ nhẹ, xốp có lỗ
thoát âm. Thành đàn làm bằng một loại gỗ cứng như gỗ Trắc, Mun. Về
hình dáng và chất liệu của hộp cộng hưởng (tức Thân đàn) của hai loại
đàn có khác nhau, nhưng về cấu tạo, hai đàn hoàn toàn giống nhau.
Dây đàn có chiều dài chạy suốt thân đàn. Thuở xưa dây đàn làm bằng tơ
tằm se thành sợi, về sau thay bằng dây sắt. Bầu đàn làm bằng 1/2 vỏ
quả bầu nậm (lấy đoạn núm thắt cổ bồng). Bầu đàn lồng vào giữa vòi đàn
nơi buộc dây đàn. Bầu đàn có tác dụng tăng thêm âm lượng cho đàn. Ngày
nay người ta tiện bầu đàn bằng gỗ và chỉ có tác dụng tạo dáng mà thôi.
Trục lên dây làm bằng tre (ở đàn tre) hoặc bằng gỗ (ở đàn gỗ). Trục lên
dây nằm ở cạnh trong sát phía dưới thân đàn. Dây đàn luồn qua một lỗ nhỏ
ở mặt đàn rồi sâu vào trục lên dây. Phía trước lỗ nhỏ có một ngựa đàn đỡ
dây đàn. Âm hưởng của Đàn Bầu nhỏ chỉ thích hợp với không gian yên
tĩnh. Thủa xưa Đàn Bầu là nhạc cụ của những người hát rong (hát Xẩm). Về
sau này Đàn Bầu đã tham gia trong các dàn nhạc Chèo, Tài Tử, Ngâm Thơ,
tốp nhạc, nhóm nhạc và độc tấu. Rất nhiều tác phẩm sáng tác cho Đàn Bầu
độc tấu như : Vũ Khúc Tây Nguyên - Đức Nhuận, Dòng Kênh Trong - Hoàng
Đạm, Vì Miền Nam - Huy Thục...
Trong số những cây đàn một dây của các nước trên thế giới như đàn
Tuntina của ấn Độ, Đàn Cung ở vùng Đông Phi, đàn TushuenKin (độc huyền
cầm) của Trung Quốc. Không có cây đàn một dây nào phát ra cả một hệ
thống âm bồi vừa có tính phổ cập, vừa có tính nghệ thuật cao như cây Đàn
Bầu của Việt Nam. Sử liệu Trung Hoa cho biết:
“...họ
dùng một khúc tre dài chừng 1 thước hơn, một dầu có trụ cao làm tay cầm,
có giây buộc vào trụ nối lại đằng kia mà làm đàn gọi là độc huyền
cầm...”
|
ĐÀN ĐÁY |
|
Đàn Đáy
thuộc họ dây chi gẩy là nhạc cụ của người Việt.
Vì đàn không có đáy, nên có tên chữ là
Vô để cầm. Hộp đàn hình thang
cân, đáy lớn rộng 24 cm, đáy nhỏ rộng 20 cm. Đáy
đàn khoét một khoảng trống hình chữ nhật. Thành
đàn cao khoảng 9 cm bằng gỗ cứng. Mặt đàn làm
bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, trên mặt có gắn một
cái thú để mắc dây. Cần đàn dài 1,16 cm trên có
gắn từ 10 - 12 phím bằng tre. Đầu đàn hình lá đề
có 3 trục gỗ để lên dây. Đàn có 3 dây bằng tơ
xe, cách nhau một quãng 4 đúng, khi nhạc công
bấm vào cung phím thứ nhất trên cả 3 dây, sẽ cho
3 âm: Sol - Dô1 - Fa1 (khác với các loại đàn
khác, Đàn Đáy cổ truyền không bao giờ đánh dây
buông). Đàn Đáy chỉ dùng để đệm cho hình
thức âm nhạc duy nhất - Hát ả Đào. Theo phó giáo
sư tiến sĩ Thụy Loan, phải tới thế kỷ XVI - XVII
- XVIII Đàn Đáy mới xuất hiện ở các đình (Lỗ
Hạnh, Hoàng Xá) và đền (Tam Lang). Tóm lại, niên
đại xuất hiện của Đàn Đáy được các nhà nghiên
cứu nghi nhận sớm nhất là thế kỷ XV. Niên đại
xuất hiện này hoàn toàn phù hợp với những ghi
chép trong thư tịch cổ và những tư liệu mỹ thuật
đã được phát hiện. Từ hình dáng, âm thanh
đến thể loại âm nhạc mà Đàn Đáy biểu diễn chỉ có
ở Việt Nam - Đàn Đáy là nhạc cụ do người Việt
Nam sáng tạo. Đàn đáy là nhạc khí đặc trưng
trước kia chỉ dùng để đệm cho một thể loại hát
duy nhất với hai nhánh mà ngày nay người Việt
thường gọi là Hát cửa đình và Hát ả đào (hoặc Ca
trù). Chỉ nam giới mới chơi nhạc cụ này. Có lẽ
đàn được sáng tạo từ thế kỷ XV với sự định hình
của thể loại hát nói trên. Cũng có những
phím cao nhưng cần đàn rất dài nên đàn đáy thuộc
loại nhạc cụ trầm và có một kỹ thuật độc đáo là
ngón chùn làm cho âm thanh bị thấp xuống so với
ngón bấm bình thường. Âm sắc trầm, đục, ấm
nhưng ngắn của đàn đáy tạo nên sự tương phản làm
nổi bật âm sắc của những người bạn hoà tấu với
nó. Ngoài thể loại nói trên, ngày nay đàn
đáy còn được dùng để đệm cho ngâm thơ. Bởi tính
chất khiêm tốn, nhũn nhặn của tiếng đàn trong
khi đệm cho hát, có người đã ví đàn đáy như một
"triết gia ẩn dật" |
|
ĐÀN HỒ |
|
Đàn Hồ hay
còn gọi là Đàn Gáo, là nhạc khí họ dây, chi kéo
cung vĩ của dân tộc Việt. Đàn Hồ làm bằng gỗ
trụ hay trắc. Bầu cộng hưởng làm bằng gáo dừa
hoặc gỗ rỗng lòng đường kính 14,5 cm, một đầu
bịt da trăn hay da kỳ đà. Cần đàn tròn hoặc
vuông không có phím bấm dài khoảng 82,5 cm, đầu
dưới cần đàn xuyên thủng qua bầu cộng hưởng. Đầu
trên gọi là thủ đàn hình chữ nhật được uốn vát
về phía sau, có gắn hai trục gỗ tròn để lên dây.
Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1,5 cm đặt
khoảng giữa mặt da. Khuyết đàn làm bằng sợi tơ
xe néo 2 dây vào gần sát cần đàn. Khuyết đàn có
tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh.
Cung vĩ làm bằng tre, hoặc gỗ được uốn cong hình
cánh cung. Vĩ đàn đặt giữa hai dây, khi đàn vĩ
cọ sát vào dây phát ra âm thanh. Đàn Hồ có 2 dây
bằng tơ xe, ngày nay đã thay bằng dây kim khí,
dây đàn được lên cách nhau một quãng năm đúng
Sol - Re1 hoặc Fa - Do1. Đàn Hồ tham gia
trong dàn nhã nhạc, phường bát âm, dàn nhạc sân
khấu tuồng, chèo và giữ vai trò quan trọng trong
ban nhạc xẩm.
|
|
ĐÀN NGUYỆT |
|
Đàn Nguyệt là nhạc cụ họ dây chi gẩy của người
Việt, đàn còn có các tên gọi khác: Đàn Kìm, Vọng
Nguyệt Cầm hoặc Quân Tử Cầm. Mặt đàn hình tròn
đường kính 30 cm bằng gỗ nhẹ, xốp để mộc. Trên
mặt đàn có gắn một bộ phận để mắc dây, gọi là
Thú. Thành đàn mỏng làm bằng gỗ cứng cao
khoảng 6 cm, đáy bịt gỗ, không có lỗ thoát âm.
Cần đàn dài khoảng 100 cm có gắn 10 phím theo
thang 5 âm (7 phím gắn ở cần đàn, 3 phím gắn ở
mặt đàn). Thủ đàn lắp 4 trục lên dây nhưng chỉ
mắc 2 dây bằng tơ xe nay đã thay bằng dây
nilon). Hai dây Đàn nguyệt lên cách nhau một
quãng 5 đúng: Fa - Đô1; Sol - Rê1 hoặc quãng 4
đúng G - C1 ; D1 - G1 Ngày xưa nhạc công gẩy đàn
bằng móng tay, ngày nay bằng miếng gẩy nhựa hoặc
đồi mồi. Nhờ có cần tương đối dài và những
phím cao, nhạc công có thể tạo được những âm
nhấn nhá uyển chuyển, mềm mại. Tiếng đàn
trong, vang, khả năng biểu hiện phong phú- khi
thì sôi nổi ròn rã, lúc lại nỉ non sâu lắng, do
đó đàn nguyệt có mặt cả trong những cuộc hoà tấu
nhạc lễ trang nghiêm, những cuộc hát văn lôi
cuốn, những lễ tang bùi ngùi xúc động cũng như
những cuộc hoà tấu thính phòng thanh nhã với
những hình thức diễn tấu khác nhau: đệm cho hát,
hoà tấu và độc tấu.
Đàn Nguyệt thường được sử dụng đệm cho Hát Văn,
Ca Huế, Ca Tài Tử, nhạc Bát Âm, Nhạc Lễ, và dàn
nhạc sân khấu truyền thống. Ngày nay Đàn
Nguyệt đã được các nhạc sỹ sáng tác thêm nhiều
tác phẩm để độc tấu như : Quê Ta, Chung Một Niềm
Tin của Xuân Khải, Tình Mẹ của Trần Luận, Tình
Quân Dân của Xuân Ba...
|
ĐÀN
NHỊ |
|
Đàn Nhị còn
có tên gọi khác là Cò Líu, Cò Lòn hoặc Nhị Líu,
Nhị Lòn, là nhạc khí dây, chi kéo cung vĩ.
Đàn Nhị làm bằng gỗ gụ hay trắc. Bầu cộng hưởng
gọi là bát nhị. Bát nhị hình ống rỗng lòng, dài
khoảng 13,8 cm, một đầu bịt da trăn hay da kỳ
đà. Cần đàn tròn không có phím, đầu dưới cắm
xuyên qua bầu đàn, đầu trên gọi là Thủ đàn. Thủ
đàn hình đầu con cò, có gắn hai trục gỗ tròn để
lên dây, có khi trục đàn được chạm khắc cầu kỳ.
Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1 cm đặt khoảng
giữa mặt da. Khuyết đàn còn gọi là "Cữ đàn" là
một sợi tơ xe néo vào 2 dây đàn. Cữ đàn có tác
dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh. Khi
đưa cữ đàn xuống là làm ngắn quãng dây phát âm,
đàn có giọng cao. Khi đẩy cữ đàn lên, làm dài
quãng dây phát âm, đàn có giọng trầm.
Cung vĩ làm bằng tre, hoặc gỗ được uốn cong hình
cánh cung, người ta mắc vĩ như dây cung. Vĩ đàn
đặt giữa hai dây, khi đàn vĩ cọ xát vào dây phát
ra âm thanh. Đàn Nhị có 2 dây bằng tơ xe,
gần đây đã thay bằng dây kim khí, được lên theo
quãng 5 đúng. Ví dụ muốn đánh những bài Bắc (có
tính chất vui) tương ứng với hai âm G1 - D2, bài
Nam (tính chất buồn) F1 - C2, bài Chèo C1 -
G1... Đàn Nhị thường tham gia trong dàn Nhã
Nhạc, phường Bát Âm, ban nhạc Tài Tử, ban nhạc
Chầu Văn, dàn nhạc sân khấu Tuồng, Chèo...
Người dân Nam bộ gọi là "đàn cò" vì hình dáng
giống như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như
mỏ cò- Cần đờn như cổ cò - thân đờn như con cò -
tiến đờn nghe lảnh lót như tiếng cò. Trong các
dàn nhạc phường bát âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu
văn, sắc bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc
dân tộc tổng hợp, dân ca... đều có đờn cò.
|
ĐÀN
SẾN |
|
Là nhạc khí dây gẩy của dân tộc
Việt. Được dùng phổ biến ở Miền Nam.
Hộp đàn hình hoa đào sáu cánh hoặc
hình lục giác, đường kính 28 cm. Mặt
đàn và đáy đàn làm bằng gỗ nhẹ, xốp,
để mộc. Thành đàn dày 6 cm, làm bằng
gỗ cứng. Cần đàn dài 70 cm, trên mặt
đàn có 17 phím bấm. Phím đàn được
gắn dựa theo thang âm 7 cung chia
đều. Đàn có 3 trục gỗ nhưng chỉ dùng
2 trục để lên dây còn 1 để trang
trí. Hai dây đàn bằng tơ se, được
lên cách nhau một quãng 4 hoặc quãng
5: Fa - Do1 hoặc Sol - Do1. Khi diễn
tấu nhạc công gẩy đàn bằng miếng gẩy
nhựa tạo ra âm sắc trong trẻo, tươi
sáng.
Đàn sến thường dùng trong
các dàn nhạc sân khấu tuồng, cải
lương.
|
ĐÀN
TAM |
|
Đàn
Tam là nhạc cụ dây gẩy của dân tộc Việt. Đàn được mắc ba dây
nên gọi là Đàn Tam (tam là ba). Hộp đàn là khuôn gỗ dầy hình chữ
nhật (4 cạnh tròn), kích thước 14 - x 17 cm. Thành đàn cao khoảng 5 cm
bằng gỗ cứng. Đáy bịt gỗ, có lỗ thoát âm. Mặt đàn làm bằng da trăn, da
kỳ đà, trên mặt có gắn một cái thú để mắc dây. Cần đàn dài 0,65 m không
có phím, trên mặt cần có một miếng gỗ để luồn dây, ba dây được mắc vào
cuối bầu đàn chạy qua ngựa và miếng gỗ, miếng gỗ này có tác dụng di
chuyển làm cho âm thanh cả 3 dây hạ xuống hay cao lên khi cần thiết. Đầu
đàn hình thang cân có 3 trục gỗ để lên dây. Dây đàn bằng tơ xe, nay bằng
dây nilon được lên cách nhau một quãng 4 đúng và 5 đúng Sol - Do -Sol1
hoặc Sol - Re - Sol1 Đàn Tam được dùng phổ biến trong dàn nhạc chèo,
phường bát âm, ban nhã nhạc. Ngày nay Đàn Tam đã được đưa vào dàn nhạc
dân tộc tổng hợp.
|
|
ĐÀN
TAM THẬP LỤC |
|
Là nhạc khí dây, chi gõ của dân tộc
Việt, có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Đàn có 36 dây nên được gọi là
Tam Thập Lục. Đàn Tam
thập lục hình thang cân, mặt đàn hơi
phồng lên ở giữa, làm bằng gỗ nhẹ,
xốp, để mộc. Cầu đàn, thành đàn làm
bằng gỗ cứng, trên mặt đàn đặt so le
hai hàng ngựa, mỗi hàng 18 ngựa. Cần
đàn bên trái có 36 móc để mắc dây,
bên phải có 36 trục để lên dây. Dây
đàn làm bằng kim khí. Que đàn được
làm bằng hai thanh tre mỏng, dẻo, ở
đầu được quấn dạ để tiếng đàn được
êm. Âm thanh đàn Tam thập lục trong
sáng, thánh thót, rộn rã. Âm vực
đàn Tam thập lục tương đối rộng. Từ
âm trầm nhất đến âm cao nhất trên
hai quãng 8, được mắc theo gam
nguyên. Khi biểu diễn nhạc công
dùng 2 que gõ vào mặt đàn tạo ra các
ngón như: Ngón rung, ngón vê, ngón
bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm...
Đàn Tam thập lục giữ vai trò quan
trọng trong các dàn nhạc sân khấu
chèo, cải lương. Đàn đệm cho hát,
độc tấu, tham gia dàn nhạc dân tộc
tổng hợp. |
|
|
|
|
Tham khảo nguồn:
Viện Âm nhạc Việt Nam
http://www.vnmusicology-inst.vnn.vn
và
www.giaidieu.net
|
|
| |
|
Trở về đầu trang
|