|
TỰ THÂN VANG
(Idiophone) |
ÂN TOONG
|
|
Ân Toong
là nhạc cụ họ tự thân vang chi gõ của dân tộc Tà Ôi. Ân Toong gồm 7
thanh gỗ đường kính 6 - 11cm dài 41 - 72cm, phần giữa của mỗi thanh được
đẽo vòng thành 7 thanh đàn. 7 Thanh dàn này sắp xếp từ thấp đến cao buộc
vào 2 sợi dây mây rồi treo dốc lên giá đàn. Hai dùi gõ bằng gỗ dài
khoảng 20cm. Trước đây đàn chỉ gồm 4 thanh gỗ dài ngắn khác nhau được
treo song song từ trên xuống bằng dây mây trên một cái giá. Loại 7 thanh
sau này đã được thanh niên người Tà Ôi cải tiến để diển tấu các bài nhạc
mới. Ân Toong là nhạc cụ do nam giới sử dụng để độc tấu, hoà tấu trong
sinh hoạt thường ngày và đuổi chim thú đến phá hoại hoa màu.
|
BIÊN CHUNG |
|
|
Biên
chung |
Bác chung |
|
Biên chung
là dàn chuông. Bác chung
là chuông lớn. Dàn biên chung của âm
nhạc triều đình Huế gồm 12 cái. Được
sử dụng trong dàn nhạc Huyền vào các
dịp lễ Tế Giao, Tế Miếu. (Ảnh tư
liệu về Biên chung trong Brodrick
1942, tr. 208) |
BIÊN KHÁNH |
|
|
Biên khánh |
Đặc
khánh và Biên chung |
|
Biên
khánh là dàn khánh đá gồm 12 chiếc trong âm nhạc triều đình
Huế. Đặc khánh là chiếc khánh lớn. Biên khánh, đặc khánh và biên chung,
bác chung đều được sử dụng trong dàn nhạc Huyền cùng với Chúc, Ngữ, đàn
Cầm, đàn Sắt... theo hệ thống bát âm của dàn Nhã nhạc lớn. |
|
|
Đàn
Cầm |
Đàn
Sắt |
|
|
|
Chúc |
Ngữ |
|
BẲNG TĂNG |
Bẳng Tăng
là nhạc khí tự thân vang, ko định âm
của người Thái và một số cư dân khác
sống ở Tây Bắc Việt Nam. Bẳng
Tăng được làm bằng nứa. Đó là những
ống nứa nhỏ rỗng hai đầu, đường kính
khoảng 5 - 7cm, dài khoảng 30 - 40cm
Bẳng Tăng là nhạc khí của nữ giới.
Khi chơi, mỗi cố gái hai tay cầm hai
ống nứa, đập hai ống vào nhau tạo âm
thanh theo những mô hình tiết tấu
quy định để phụ hoạ, làm nền cho các
điệu múa. Đôi khi các cô gái vừa
diễn Bẳng tăng vừa nhảy múa, lúc này
Bẳng Tăng có vái trò vừa là nhạc cụ
vừa là đạo cụ múa Âm thanh của
Bẳng Tăng vang nhưng ko trong. Bẳng
Tăng thường được diễn tấu vào những
dịp lễ hội và những đêm liên hoan
của thanh niên, trai gái |
CHIÊNG HONH |
|
Chiêng Honh là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ đấm của dân
tộc Gia Rai Dàn Chiêng Honh được làm bằng đồng gốm 11 chiêng núm
đường kính 19,5 - 83cm và 13 chiêng bằng đường kính 25,5 - 53cm. Là nhạc
cụ thiêng rất phổ biến ở Gia Rai, được nam giới sử dụng trong nghi lễ
tín ngưỡng như: Hội đâm trâu, hội Pơthi, lễ bỏ mả, hội ăn mừng lúa
mới...dàn chiêng hoà nhịp vang lên là tiếng nói của con người với các
đấng thần linh |
CHING KRAM |
|
Ching
Kram - nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ đấm của dân tộc Êđê,
là nhạc cụ dành cho nam giới dùng để hoà tấu trong sinh hoạt, vui chơi,
giải trí Ching Kram gồm 6 -7 thanh tre dài 31 -43cm, dầy 1cm, bản
rộng 4,2 - 5,3cm. Mỗi thanh có kèm theo 1 dùi gõ và một ống tre dài 20 -
25cm làm bầu cộng hưởng. Khi diễn tấu người sử dụng kẹp ống cộng hưởng
vào giữa hai chân, tay cầm dùi gõ vào thanh tre tạo ra âm thanh nghe ròn
rã, vui tai rất thích hợp với không khí vui chơi, giải trí |
CHŨM CHOẸ |
|
Chũm
choẹ
còn gọi là Não bạt, là
nhạc khí họ tự thân vang của dân tộc Việt. Chũm choẹ làm bằng hợp kim
đồng thiếc, gồm hai chiếc giống nhau, hình tròn như chiếc đĩa, có núm để
cầm. Khi đánh chũm choẹ, hai tay cầm hai núm, đập hai mặt vào nhau, có
lúc đập chéo xuống, chéo lên. Người sử dụng Chũm Choẹ vừa đánh, vừa múa.
Âm thanh Chũm Choẹ to, vang, hơi chói tai. Chũm Choẹ được sử dụng trong
dàn nhạc cung đình, trong sân khấu tuồng, cải lương, trong đám rước sư
tử và tham gia trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp hoà tấu |
CHÙM MA HÍNH |
|
Là nhạc cụ tự thân vang chi
rung lắc, được dùng để điểm nhịp khi người Thái chơi đàn Tính cũng như
khi đệm cho múa xoè
Chùm Ma Hính
gồm 3 - 5 chiếc làm bằng đồng, đường kính 1,5 - 2,5cm buộc thành chùm.
Có nhiệm vụ giữ nhịp trong đội nhạc, khi diễn tấu người ta đeo Chùm Ma
Hính vào ngón tay rung theo tiếng nhạc, âm thanh vang lên nghe rộn rã,
khoẻ và sáng |
CHUÔNG CHÙA |
|
|
Chuông
là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ
của dân tộc Việt. Chuông được làm bằng đồng thau, có đường kính từ 15 -
23cm, chuông có hình giống như cái bát để ngửa. Khi sử dụng người ta cầm
một dùi gõ bằng gỗ bọc vải một đầu gõ vào thành chuông tạo ra âm thanh
trong trẻo, lảnh lót. Chuông được sử dụng trong đường thượng chi
nhạc, trong dàn nhạc huyền, dàn nhã nhạc hoặc tế lễ trong các đền chùa.
Loại chuông Chùa khác lớn hơn thường treo trên giá |
ĐÀN T'RƯNG |
|
Đàn T'rưng
là một nhạc khí "thô" được chế tác
từ những khúc gỗ bóc vỏ phởi khô
hoặc những ống nứa vót một đàu, chặt
theo những độ dài khác nhau để tạo
nên những âm vực ưng ý đem treo lên
một cái giá đủ trở thành một cây đàn
gõ " phím" cho một hoặc hai người
diễn tấu bắng cách cầm những dùi tre
gõ vào phím này Đàn T'rưng thường
được diễn tấu bên trong nhà rông
hoặc ngoài trời vào các dịp lễ hội
truyền thống hay trong sinh hoạt
cộng đồng của các dân tộc người
Banah, Jarai, Êđê... T'rưng có
khả năng diễn tấu phong phú và đa
dạng. Với nguồn âm thanh bất tận khi
êm nhẹ theo giai điệu trữ tình của
một khúc hát giao duyên, khi hoà
cùng dàn nhạc tấu lên bản hợp tấu
của núi rừng hùng vĩ...trong giao
lưu văn hoá, T'rưng cũng xuất hiện
trên các sân khấu ca nhạc hiện đại
phụ hoạ theo tiếng hát rực lửa của
những con người Tây Nguyê, nâng
canhs cho những giọng ca vàng vang
đến mọi nơi chốn xa xôi. Là một
loại nhạc cụ đặc sắc trong kho tàng
nhạc khí của Tây Nguyên, âm thanh
độc đáo của T'rưng ko chỉ lôi cuốn
làm say đắm tâm hồn các dân tộc anh
em trên đất Việt, mà còn ra khỏi
biên giới ngân vang đến tận những
vùng đất xa xôi và được các bạn bè
khắp năm châu, bốn bể nhiệt tình đón
nhận |
ĐÀN ĐÁ |
|
Nhạc khí tự thân vang, thuộc
loại xylophone, metallophone. Mỗi nhạc cụ là một bộ gồm nhiều thanh đá
hợp thành. Mỗi thanh đá có kích thước và hình dáng khác nhau, được chế
tác bằng phương pháp ghè đẽo thô sơ. Vật liệu để làm đàn là những loại
đá sẵn có ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ Căn cứ vào bộ đàn
tìm được ở di chỉ khảo cổ học Bình Đa ( Đồng Nai ) được biết rằng việc
chế tác những thanh đá này đã xuất hiện từ trên dưới 3000 năm trước
Cho tới những năm đầu thập kỉ 90 đã tìm được gần 200 thanh đàn đá rải
rác ở các tỉnh Đắc Lắc, Khánh Hoà, Đồng Nai, Ninh Thuận, Sông Bé, Lâm
Đồng, Phú Yên. Số lượng thanh ở mỗi tập hợp được phát hiện là 3 - 15. Bộ
đầu tiên tìm được tại Ndut Lieng Krak ( Đắc Lắc ) vào năm 1949 hiện được
bảo quản tại viện bảo tàng " con người" ở Paris. Nhiều bộ khác đang được
bảo quản tại Việt Nam. Một số dân tộc ở Tây Nguyên coi những thanh đá
được phát hiện như những vật thiêng và giữ gìn như của gia bảo. Có tộc
dùng chúng trong những lễ hội lớn để cúng thần, có tộc lại dùng làm đàn
đá giữ rẫy |
ĐAO - ĐAO |
|
Đao -
Đao là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ đập của dân tộc Khơ
Mú, một dân tộc sống ở vùng Lai Châu, Sơn La Đao- đao làm từ một ống
nứa dài chứng 1 - 1,2m ( một đầu kín, một đầu hở ), đường kính ống
khoảng 3 - 4cm. Ở phần 2/3 ống đàn người ta vát ngược hai bên ống, để
lại mỗi phía một mảnh có chiều dài chừng 30cm rồi gọt mỏng bớt phía cật
và làm tròn cạnh. Phía ống hơi, gần mấu có khoét 2 lỗ bấm để tạo ra 3
cao độ. Khi chơi Đao - Đao, tay phải cầm ống, cùng lúc ngón cái và
ngón trỏ của tay phải bấm lỗ bấm, rồi gõ ống vào tay trái theo những
tiết tấu nhất định. Khi gõ hai mảnh nứa rung lên gây ra tiếng rè rè và
tiếng vang rất nhỏ ở ống hơi Người Khơ Mú dùng Đao - đao tạo nhịp
điệu cho múa, cho hát. Có thể nói Đao - Đao là nhạc cụ linh hồn
trong sinh hoạt múa hát đời thường và trong sinh hoạt nghi lễ của người
Khơ Mú |
LUỐNG |
|
Luống
- hay còn gọi là Khua Luống, là cái cối đập lúa và giã gạo của dân tộc
Thái. Nó cũng là nhạc cụ dùng để độc tấu và đệm cho hát trong sinh hoạt,
vui chơi, giải trí. Được xếp vào họ tự thân vang, chi gõ Luống được
làm bằng gỗ, thân hình thuyền dài 224cm, rộng 40cm. Để biểu diễn luống
cần có 7 người con gái ( gồm 6 con 1 cái ), mỗi người cầm một chiếc chày
bằng gỗ dài khoảng trên 100cm gõ vào thành luống thành những tiết tấu
vui nhộn |
MÕ |
Mõ được xếp là một nhạc khí tự
thân vang, phổ biến ở Việt Nam. Trên thực tế Mõ được sử dụng vào các môi
trường khác nhau và có những chức năng khác nhau
MÕ CHÙA làm từ các loại gỗ chắc, cứng, hình
dạng thường gặp hình cầu dẹt với nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau: Cỡ to
nhất có đường kính khoảng 70 - 80cm, cỡ vừa đường kính 20 - 30cm và cỡ
nhỏ đường kính 5 - 7cm. Tất cả ở giữa đều rỗng, khoét theo hình lòng
máng. Dùi gõ mõ cũng làm bằng gỗ, kích cỡ của dùi to nhỏ tương xứng với
kích cỡ của mõ. Âm thanh của mõ gỗ giòn, âm vang sâu lắng. Trong chùa,
mõ được sử dụng khi tụng kinh với vai trò điểm nhịp đều theo lời tụng
MÕ TRÂU
được làm bằng gỗ hoặc gốc tre già hình hộp đứng. Mặt đáy khoét rỗng
thông với mặt trên. Mặt đáy hình chữ nhật với chiều dài từ 20 - 25cm,
chiều rộng từ 10 - 15cm. Mặt trên hình chữ nhật với chiều dài dài hơn
chiều dài của mõ và ở giữa buộc 2 đoạn gỗ dài hơn chiều cao của mõ
khoảng 1cm. Người ta buộc mõ vào cổ trâu. Khi trâu chuyển động, đi lại,
2 đoạn gỗ gõ đều đặn vào thành trong của mõ phát ra âm thanh nghe lách
cách vui tai. MÕ LÀNG Mõ là
nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. Mõ làm bằng củ tre
đực, hình bán nguyệt, có khoét một đường rỗng ở giữa.Khi sử dụng, một
tay để mõ nằm trong lòng bàn tay, một tay cầm dùi gõ lên thân mõ. Âm sắc
của Mõ trầm, ấm Mõ thường được sử dụng để đánh nhịp một, giữ nhịp cho
người hát hay đàn. Và mõ có thể đánh dồn nhanh trong thi nhịp, đổ khổ
gây không khí. Có loại làm bằng gỗ cứng hình cá trắm dài khoảng 1m, to,
khoét dài rỗng theo bụng cá và thường treo ở điếm làng. Có loại làm bằng
gốc tre già gọt theo hình trăng khuyết, đường kính từ 15 - 20cm, ở giữa
có khoét một rạch rỗng. Trong đời sống nông thôn người Việt xưa, mõ có
chức năng thông tin. Mõ được làng giao cho một người đàn ông phụ trách,
thường được gọi là " thằng mõ", hay " anh mõ". Vào những dịp có việc
làng hoặc những sự kiện đột xuất cần thông báo " anh mõ" có nhiệm vụ gõ
mõ thông tin cho khắp các gia đình trong làng
MÕ SỪNG TRÂU
Là nhạc cụ họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. Được làm bằng một
đoạn sừng trâu dày, dài 12cm. Người ta phải chọn loại sừng hình cong
tiếng mới đẹp và vang. Khi diễn tấu nhạc công một tay cầm mõ, còn một
tay cầm dùi gõ vào thân mõ. Âm thanh của mõ sừng trâu to, khoẻ, vang. Mõ
tham gia trong dàn nhạc tuồng, dàn nhạc lễ, dàn đại nhạc của cung đình,
hoặc hoà tấu cùng tù và, ngà voi, vỏ ốc biển.... |
RÔNEATHUNG |
|
Được xếp vào nhạc cụ họ tự
thân vang, chi gõ của người Kh'mer. Rôneathung làm bằng gỗ hoặc tre cứng
với độ dày mỏng, dài ngắn khác nhau trông giống như một chiếc thuyền,
nên còn được gọi bằng một tên khác là đàn thuyền Gồm 17 thanh gỗ dài
từ 31 - 42cm, rộng 6cm. Các thanh gỗ này được xâu bằng 2 sợi dây rồi
treo trên giá. Giá đàn làm từ gỗ dài 120cm, rộng 16cm đồng thời làm bầu
cộng hưởng. Khi diễn tấu, đàn được sử dụng bằng 2 chiếc dùi gỗ có mấu
trong ở đầu Rôneathung được sắp xếp theo thang âm 7 cung chia đều.
Tiếng Rôneathung trầm, to, vang khoẻ. Dùng cho nam giới diễn tấu trong
dàn nhạc dân tộc Kh'mer Nam Bộ, dùng trong hát, múa và ca múa kịch dân
tộc hay trong dàn ngũ âm |
SÊNH TIỀN |
|
Sênh
tiền
hay còn gọi là Phách xâu
tiền là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ đập của dân tộc Việt
Sênh Tiền là một cặp phách hai lá bằng gỗ cứng. Lá phách thứ nhất gọi là
" lá phách kép", lá phách thứ hai gọi là " lá phách đơn". Lá phách kép
gồm hai thanh gỗ một dài ( 25cm ), một ngắn ( 11cm ) được gắn úp vào
nhau bằng một miếng da hay một bản lề. Phía đầu thanh dài có gắn các cọc
tiền chinh. Lá phách đơn dài 25cm có các đường răng cưa ở cạnh và ở mặt
lá phách Khi đánh phách, tay trái cầm lá phách kép, tay phải cầm lá
phách đơn vừa đập, vừa rung, vừa quẹt tạo ra các tiết tấu nghe rất rộn
ràng, Sênh tiền chủ yếu dùng đệm nhịp điệu ở các dàn nhạc tế, lễ, dàn
đại nhạc cung đình và nhạc múa cổ truyền |
SONG LOAN |
|
Song
loan, nhạc cụ họ tự thân vang chi gõ của dân tộc Việt. Là một
loại mõ nhỏ bằng gỗ cứng hình tròn dẹt, đường kính 7cm, cao 4cm, có gắng
một dùi gõ, Khi sử dụng Song Loan, người ta dùng tay hoặc chân đập vào
dùi gõ, dùi gõ đập vào Song Loan tạo ra âm thành. Âm thanh Song Loan
nghe đanh gọn. Song Loan được sử dụng để cầm nhịp trong ca đàn Tài Tử
Nam Bộ, trong dàn nhạc Sân Khấu Cải Lương và trong Ca Huế |
SÊNH SỨA (CẶP KÈ) |
|
Sênh sứa, hay Cặp kè là nhạc cụ họ
Tự thân vang do người Việt chế tác.
Là một nhạc cụ đặc trưng dùng trong
hát Xẩm,
Sênh sứa gồm hai miếng tre giống như
hình chiếc lá, chiều dài khoảng
14cm, chiều ngang đoạn giữa khoảng
5cm, bề cật tre là lưng, bề ruột tre
là mặt. Thanh âm trong, dòn, có
những tiếng rung rất đặc trưng. Khi
diễn tấu nghệ nhân hát Xẩm cầm đôi
Sênh sứa trong lòng bàn tay, hai mặt
lưng ấp vào nhau, thường được sử
dụng hai đôi, cầm ở hai tay, với bàn
tay điêu luyện, lúc mở lúc nắm vào,
lúc rung các ngón tay, lúc tay này
nắm tay kia mở, lưng cặp kè gõ vào
nhau, tạo nên tiết tấu và hiệu quả
âm thanh vui tươi hấp dẫn. |
THANH LA |
|
Thanh
La là tên gọi một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ của
dân tộc Việt. Ở miền Nam gọi là Đẩu, miền Trung gọi là Tang Được làm
bằng hợp kim đồng thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh La có nhiều cỡ to,
nhỏ khác nhau, đường kính 15 - 25cm, mặt hơi phồng, xung quanh có thành
cao 4cm. Ở cạnh Thanh la người ta dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi dây
quai. Khi diễn tấu nhạc công cầm dây quai giơ lên, còn một tay cầm dùi
gõ vào mặt thau tạo ra tiếng vang, trong trẻo Thanh La được sử dụng
trong dàn đại nhạc, dàn nhạc lễ miền Nam, trong ban nhạc chèo, chầu văn
và dàn nhạc dân tộc tổng hợp |
TIU CẢNH |
|
Là nhạc khí tự thân vang của
dân tộc Việt, gồm 2 chiếc Thanh La cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính
khoảng 10cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm cao
thấp cách nhau quãng năm đúng. Tiu Cảnh được treo trong hai vòng tròn
của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ. Nếu ba chiếc treo trong ba khung
thì gọi là Tam âm. Khi biểu diễn, nhạc công tay trái cầm Tiu, tay phải
cầm que tre có mấu gõ vào mặt thau tạo ra âm thành cao, vang, lảnh lót.
Tiu Cảnh tham gia trong ban nhạc chầu văn, dàn bát âm, ban nhạc cúng lễ |
TRỐNG ĐỒNG |
|
Là nhạc khí tự thân vang, chi
gõ của dân tộc Việt. Trống Đồng được đúc bằng đồng cả vành và tang
trống. Theo phân loại của F.Heger, Trống Đồng có 4 loại chính:
LOẠI 1: là loại Trống Đồng lớn, cổ xưa nhất. Ngôi sao ở giữa mặt trống
thường có 12 cánh. Một số trống có tượng cóc ở mép mặt trống.Thân trống
phần trên phình ra, phần giữa thắt lại và phần dưới choãi ra, có 4 quai
LOẠI 2: có cả loại lớn và vừa. Ngôi sao ở giữa mặt trống thường có 8
cánh. Mặt trống chờm ra khỏi tang. Rìa mặt trống có từ 4 - 8 tượng cóc,
có 2 quai, trang trí hoa văn hình hoa lá đối xứng hoặc hình học.
LOẠI 3: Thường là loại vừa và nhỏ. Ngôi sao có 12 cánh hoặc 8 cánh, có 4
tượng cóc ở mép trống, thân trống phần trên và dưới hình viên trụ, phần
giữa thon lại, quai nhỏ
LOẠI 4: Đường kính mặt trống thường có
kích thước trung bình 50cm, cao 45 - 50cm. Mặt trống phủ vừa sát đến
thành thân trống, ngôi sao ở giữa mặt trống 12 cánh. Thân trống chia ra
2 phần. Phần trên phình ra đỡ lấy mặt trống, phần dưới hình viên trụ
tròn có 4 quai. Hoa văn trang trí hình động vật: Rồng, khỉ, ko có tượng
cóc trên rìa mặt trống. Trống được đúc bằng hợp kim đồng, nhưng tiếng ko
trong ko vang xa như trống đồng loại 1 Trống Đồng được gõ bằng dùi có
mấu hoặc bọc vải da. Người đánh trống tay phải cầm dùi đánh vào mặt
trống, tay trái cầm một thanh tre gõ vào tang trống tạo ra rất nhiều âm
sắc khác nhau: - Khi đánh vào núm giữa ( được đúc dầy hơn ) âm thanh
nghe có cảm giác trầm hơn so với vị trí khác - Đánh vào vành hoa văn
cho cảm giác trong, vang - Khi đánh vào các con cóc, âm thanh phát ra
sắc, gọ, ngắn Âm thanh Trống Đồng vang, khoẻ, hùng tráng. Trống Đồng
được sử dụng trong Đường thượng chi nhạc ( thời Hậu Lê ) trong dàn Nhã
nhạc thế kỉ XV, XVI và trong dàn nhạc lễ thế kỉ XVIII. Hiện nay chỉ còn
thấy trong đời sống văn hoá các dân tộc Khơ Mú, Lô lô và dân tộc Mường
thường sử dụng Trống Đồng với tư cách là một nhạc cụ trong tang lễ.
Trống Đồng là một hiện vật văn hoá tiêu biểu mà cha ông ta đã để lại. Là
một nhạc khí quan trọng trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam |
ƯNG QUÁI |
|
Ưng Quái là tên gọi của dân
tộc Cơ Tu, Pako hiện sinh sống ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế để chỉ nhạc
cụ này. Là nhạc cụ khá độc đáo và phổ biến trong sinh hoạt âm nhạc của
dân tộc Cơ Tu và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam. Mỗi dân tộc đều có tên
gọi riêng cho nhạc cụ này như: Người Thái ( phía Bắc ) gọi là " Hưng
Toóng", người Mường là " Páng Tơ Ính" hay người Việt gọi là " Đàn
Môi"... Ưng Quái làm bằng đồng dát mỏng hình lá tre dài khoảng 8cm,
người ta đục thủng 2 đường theo hai cạnh của một hình tam giác cân để
làm một lưỡi gà sao cho lưỡi gà này có thể rung tự do được. (Nếu làm
bằng tre thì gọi là Ânkrao - Theo Vĩnh Phúc
http://vinhphucms.net.tf Có nhiều ý kiến cho rằng "
Ưng Quái" có thể xếp vào họ hơi, hay họ dây. Lại có ý kiến cho rằng nên
xếp nhạc cụ này vào họ tự thân vang. Căn cứ vào nguồn phát âm của nhạc
cụ, ta thấy khi chơi đàn, người chơi cầm đàn cho 2 môi giữ chặt lấy 2
cạnh của đàn. Tay trái giữ đàn, tay kia dùng ngón trỏ bật vào đàn. Chấn
động rung sẽ thay đổi khẩu hình để tạo ra những âm bồi khác nhau. Cũng
có dân tộc dùng dây buộc vào lá đồng, lấy ngón tay gẩy tạo ra âm thanh.
Vì thế xếp nhạc cụ này vào họ tự thân vang là hợp lí. Âm sắc của Ưng
Quái đặc biệt, huyền ảo, thì thầm hơi có tiếng rè. Ưng Quái rất thích
hợp trong ko gian yên tĩnh, trữ tình cho thanh niên nam nữ tâm tình,
Trong đêm khuya, tiếng đàn vang lên đối đáp nhau thể hiện tình cảm một
cách tế nhị, nên người Cơ Tu luôn coi Ưng Quái là một người bạn ko thể
thiếu trong cuộc sống của họ
Ưng Quái - nhạc cụ họ hơi, chi lưỡi gà rung tự do, là nhạc cụ độc
tấu dùng trong sinh hoạt thường ngày của dân tộc Cơ Tu Ưng Quái được
làm bằng một mảnh đồng dát mỏng hình chiếc lá tre dài 8cm, ở giữa mảnh
đồng người ta cắt rời hai đường chéo tạo thành một hình tam giác ( cạnh
đáy vẫn dính vào thân đàn ) làm lưỡi gà. Khi sử dụng người chơi đàn đặt
hờ đàn vào giữa hai môi, dùng ngón tay bật vào đầu đàn làm rung bộ phận
tam giác tạo ra các âm thanh vang lên trong khoang miệng. |
TRỐNG QUÂN |
|
Trống Quân - hay
trống đất được sử dụng trong một lối hát giao duyên ở đồng bằng Bắc Bộ,
thường được tổ chức vào ban đêm, dưới trăng thu, trong lúc hội hè để phô
diễn tài nghệ đối đáp và trao đổi tâm tình. Trống được tạo bằng cách đào
một hố đất hình vuông, đậy kín bằng mmột tám ván, chính giữa cắm một
chiếc cọc. Đầu trên của chiếc cọc được căng một sợi dây, hai đầu dây gắn
chặt xuống đất. Khi hát hết một câu, người hát lấy que đập vào dây, tạo
nên một dao động truyền qua cọc xuống mảnh ván làm rung ván. Cột không
khí chứa trong hố dao động, tạo ra âm thanh "thùng, thình" vang động rất
xa. Ảnh trên là có sự cải tiến bằng một cái thùng gỗ.
|
|
|
|
Trở về đầu trang
|
|