|
|
Ả Đào
- Ca trù - là một loại hình nghệ thuật cổ truyền chuyên nghiệp hình
thành từ thời Lý (1010 -1225), thịnh hành ở các triều Lê (1533 -1788) và
rất phát triển ở miền Bắc Việt Nam vào thời Nguyễn (1778 - 1945).
Dàn
nhạc gồm ba nhạc cụ: thứ nhất
cỗ phách 3 lá - nhạc cụ được coi như xương
sống của lối hát do chính người hát sử dụng, góp phần tạo nên tính nhất
quán bởi sự nhắc lại của các khổ phách; thứ hai
đàn đáy - loại đàn gẩy
độc đáo của Việt Nam giữ chức năng đệm, phối hợp với giọng hát và tiết
tấu phách một cách hài hòa, nhuần nhuyễn; thứ ba
Trống chầu - loại trống
nhỏ do một người có trình độ thẩm mỹ cao về văn thơ, âm nhạc và có óc
sáng tạo linh hoạt dùng để chấm ngắt câu
văn
và khen chê giọng hát, tiếng đàn.
|
|
|
DÀN NHẠC THÍNH PHÒNG HUẾ |
|
Xứ
Huế - Kinh đô của Việt Nam suốt hơn 150 năm. Ngày nay, bên cạnh những
kiến trúc, đền đài, lăng tẩm độc đáo, hiển hiện hài hòa giữa cảnh sắc
thiên nhiên thơ mộng của sông Hương, núi Ngự, xứ Huế còn lưu lại một
loại hình ca nhạc đặc trưng cho vùng đất cố đô này. Đó là Ca nhạc Thính
Phòng Huế thường được gọi là Ca Huế với hình thức âm nhạc bao gồm cả
nhạc hát và nhạc đàn.
Ca nhạc Huế có một lịch sử lâu đời. Nhưng cho đến ngày nay chưa có tư
liệu đích xác nào nêu rõ được thời điểm ra đời, ai đã tổ chức và sáng
tác những bản nhạc đàn Huế. Đến thế kỷ XIX, khi nhà Nguyễn đã thống nhất
giang sơn, thực hiện trị quốc an dân, cũng là lúc ca nhạc Huế có điều
kiện phát triển. Các nhạc công là những người rất giỏi đàn chơi trong
đội nhạc ngự ở triều đình. Ngoài những công việc trong triều, họ cùng
với học trò của mình lập nên những nhạc mục và dựa vào các ngón đàn của
nhạc triều để sáng tác những bản hòa tấu và độc tấu. Âm nhạc của họ được
các ông hoàng, bà chúa và các quan trong triều rất yêu thích. Nên các
ông hoàng bà chúa thường xuyên mời ban nhạc đến tư dinh để dạy đàn, đồng
thời cùng nhau đàn hát, thưởng thức âm nhạc. Vào đầu thế kỷ XX, ca nhạc
Huế đã phát triển cực thịnh, nhưng từ sau năm 1945 đã dần dần bị mai một.
Ngày nay ca nhạc Huế trở thành di sản âm nhạc quí giá, được nhà nước bảo
tồn và tạo điều kiện khôi phục lại.
Dàn
nhạc Thính phòng Huế sử dụng các nhạc cụ:
Nguyệt, Nhị, Tranh, Tỳ Bà, Bầu,
Sáo với nhiều hình thức hòa tấu và đệm cho hát. Những hình thức thường
gặp hiện nay là:
-
Hoà
tấu song thanh
của 2 nhạc cụ: Tranh, Nguyệt; Tranh, Bầu; Nhị, Bầu; Nhị, Tỳ Bà hoặc Bầu,
Nguyệt.
-
Hoà tấu tam thanh
của 3 nhạc cụ: Nguyệt, Nhị, Tranh; Bầu, Nhị, Tranh hoặc Tỳ Bà, Nguyệt,
Tranh.
-
Hòa tấu tứ tuyệt
của 4 nhạc cụ: Bầu, Nhị, Tranh, Nguyệt hoặc Nhị, Tỳ Bà, Nguyệt, Sáo.
-
Hoà tấu ngũ tuyệt
của 5 nhạc cụ: Nhị, Nguyệt, Tranh, Tỳ bà, Sáo.
Đặc
biệt khi đệm cho hát, người hát thường có 1 đôi phách nhỏ để gõ nhịp.
Tiếng phách vang lên hòa với dàn nhạc càng tạo ra âm hưởng độc đáo cho
ca Huế
|
|
DÀN NHẠC THÍNH PHÒNG TÀI TỬ NAM BỘ |
|
Các nhạc khí trong Dàn nhạc Tài tử Nam Bộ:
Ðàn Kìm (Nguyệt):
với hai dây tơ và 8 phím, nghệ nhân Ðàn Kìm ngồi trông ngay ra sân khấu,
giữ nhịp Song lang và thường là người điều khiển dàn nhạc, tiếng Ðàn Kìm
không thanh như tiếng Tranh nhưng khi hòa cùng với tiếng Tranh có âm
hưởng nghe rất hay. Tùy hơi cao thấp của diễn viên, Ðàn Kìm có thể đàn 5
dây Hò như sau: hò nhứt ăn vào bậc thứ nhứt dây Tiếu, hò nhì ăn vào bậc
chữ Xự dây Tiếu, hò ba ăn vào bậc chữ Xang, hò tư thường gọi là dây
Chinh ăn vào bậc chữ Xê, hò năm ăn vào bậc chữ Cống dây Tiếu.
Ðàn Tranh: (thập lục)
với 16 dây kim khí, tiếng thanh tao với ngón nhấn, ngân... cũng như Ðàn
Kìm, Ðàn Tranh có thể đổi bậc dây Hò tùy hơi cao thấp của diễn viên. Ðàn
Tranh có nhiều dây nên được 3 thang âm: thượng, trung, hạ, có tiếng song
thinh nghe rất dịu.
Ðàn Cò (Nhị):
không có phím, với hai dây tơ, cung vĩ. Ðàn Cò (Nhị) là nhạc khí đắc
dụng nhất luôn luôn có mặt hầu hết các Dàn nhạc như Cải Lương, Hát Bội,
Chèo, nhạc Tài Tử, Nhạc Lễ...
Ðàn Sến:
với hai dây tơ, đặc điểm đàn ít nhấn.
Ðàn Ghi-Ta Việt Nam:
tiếng thanh như Ðàn Tranh, Ghi-Ta đàn bài Vọng cổ và Bài Oán nghe rất
hay, nhưng đàn Bài Bắc và Nam không hay bằng Ðàn Kìm.
Đôi khi bổ sung thêm
Ðàn Violon: với 4 dây, cung kéo như Ðàn Cò, Ðàn Violon cùng với Tranh và
Ghi-Ta Việt Nam để đàn Vọng Cổ nghe rất hay.
Trong Cải lương còn dùng thêm Sáo hoặc
Tiêu,
nhưng với một bậc Hò, không thay đổi như các đàn khác.
|
|
DÀN NHẠC CUNG ĐÌNH |
|
Dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc Cung đình Huế xưa |
|
Đại nhạc
là dàn nhạc có quy mô lớn của dân tộc Việt, chỉ được dùng khi có sự hiện
diện của Vua trong các Đại lễ: lễ Đại triều, lễ Vạn thọ (sinh nhật Vua),
lễ tế Nam giao (khi vua vào bái vị), lễ tiếp sứ thần nước ngoài... và lễ
tế có tính quốc gia trọng đại: lễ tế Giao (tế Trời, Đất), lễ Tịch điền (lúc
nhà Vua tự mình cày ruộng)...
Biên chế dàn Đại nhạc (Cổ xúy - Trống kèn) gồm:
20 trống lớn; 8 kèn; 4 tù và bằng sừng trâu; 2 tù
và bằng vỏ ốc biển. Với âm lượng lớn, mạnh mẽ của bộ gõ và bộ hơi cùng
quy mô biên chế đồ sộ của dàn nhạc đủ để tạo sự tôn nghiêm, trang trọng
trong các nghi lễ cung đình. |
|
|
Dàn Tiểu nhạc và Đại nhạc hiện nay.
VP |
|
Dàn
Tiểu nhạc
(Ty trúc) Gồm các nhạc khí dây và sáo như đàn
Tam, Tỳ bà, Nhị, Nguyệt,
Sáo trúc và nhạc cụ gõ như
sinh tiền, Tam âm...
Dàn nhạc Huyền xuất hiện vào năm Minh mạng thứ 19 (1838), dàn nhạc huyền
thường được sử dụng trong tế lễ như: Lễ Thánh Thọ, Vạn Thọ, Thiên Xuân,
tế Nam Giao (lúc nhà vua mới xuất hiện, bước lên đàn). Biên chế dàn nhạc
gồm:
1 khánh lớn, 1 biên khánh (gồm 12 khánh nhỏ), 1 bác chung (chuông
lớn), 1 biên chung (gồm 12 chuông nhỏ), 1 trống lớn, 1 trống nhỏ, 1 cái
phục phụ (trống hai mặt da), 1 cái chúc, 1 cái ngữ, 2 cái phách, 2 đàn
cầm, 2 đàn sắt, 2 tiêu, 2 địch (sáo ngang), 2 huân (1 nhã huân và 1 tụng
huân), 2 trì, 2 sinh (nhạc cụ thổi).
|
|
DÀN NHẠC TUỒNG |
|
Dàn nhạc Tuồng là dàn nhạc của sân khấu Tuồng - một hình thức sân khấu
truyền thống cung đinh Việt Nam. Sân khấu Tuồng có cội nguồn từ sân khấu
Hý Kịch Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam năm Thiện Bảo (1279 - 1284)
thời nhà Trần và dần được Việt Nam hóa các hình thức nghệ thuật từ biểu
diễn, ca hát đến dàn nhạc để trở thành sân khấu cổ truyền Việt Nam với
các sáng tạo mang tính bản địa.
Sân khấu Tuồng với các vở diễn bi kịch bạo liệt thể hiện các vai hùng
của tư tưởng trung quân, vì vậy các hình thức nghệ thuật phục vụ nó phải
phù hợp với tính căng thẳng và bạo liệt. Chính vì vậy dàn nhạc Tuồng là
một tập hợp các nhạc cụ có âm thanh thể hiện được nhiều cường độ lớn nhỏ
khác nhau. Dàn nhạc ấy bao gồm các nhạc cụ sau đây:
3 kèn dăm (cao,
trung, trầm) gọi là kèn bóp, 2 nhị, 1 hồ tiểu, 1 trống cái, 1 trống
chiến, 1 thanh la, 1 não bạt, 1 chuông và 1 mõ.
Có 3 nhạc cụ trong 12 nhạc cụ kể trên được coi là chủ đạo, là tính cách
của sân khấu Tuồng là
kèn bóp, nhị và trống chiến. Trống chiến là linh
hồn âm nhạc của sân khấu Tuồng. |
|
DÀN NHẠC XẨM |
|
Hát Xẩm là hình thức hát rong
có địa bàn hoạt động khắp cả nước. Nhưng chỉ trong hát Xẩm
cổ vùng đồng bằng Bắc bộ mới có làn điệu riêng. Khi biểu
diễn, người hát Xẩm thường vừa hát vừa đánh
đàn bầu (còn gọi
là đàn Xẩm) hoặc kéo
nhị, phối hợp với người đánh
sênh, vỗ
trống mảnh - đây là những nhạc cụ thường sử dụng trong dàn
nhạc Xẩm. Đôi khi có thêm cả
trống đế, mõ hoặc một số nhạc
cụ khác. |
|
Theo Viện Âm nhạc:
http://www.vienamnhac.vn và Nhạc khí dân tộc Việt của Võ
Thanh Tùng. Nxb Âm nhạc - 2000). |
|
|
|