Nhân Nhạc hội đàn Bầu toàn quốc với
chủ đề “TRỞ VỀ CỐ ĐÔ” tại Học viện
Âm nhạc Huế ngày 21/12/2017 và trên
báo Pháp luật online ngày 26/12/2017
có đăng bài: “ĐỀ NGHỊ ĐÀN BẦU LÀ DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ THẾ GIỚI”
cho biết: Theo các chuyên gia âm
nhạc, để có thể làm tốt hơn công tác
bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị
của đàn bầu - nhạc cụ truyền thống
độc đáo của Việt Nam, đồng thời
khẳng định rõ ràng cây đàn bầu là
của người Việt Nam, từ đó lan tỏa
giá trị văn hóa Việt Nam ra thế
giới, Nhà nước cần nhanh chóng lập
hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận cây
đàn bầu là giá trị văn hóa phi vật
thể đại diện nhân loại của Việt Nam…
Theo sự kiện đó, tôi xin đăng lại
một bài viết: “Độc huyền cầm
trong luận văn "Kinh tộc độc huyền
cầm nghiên cứu" của nghiên cứu sinh
tống đường (Trung quốc)” của
Đinh Văn Minh (Viện nghiên cứu Hán
Nôm) đăng trên vienamnhac.vn và dẫn
thêm từ nguồn sử liệu cổ của Trung
Quốc nói về đàn bầu của người Việt
xưa… Sau đây là bài viết của Đinh
Văn Minh:
Dân tộc Kinh: là dân tộc thiểu số ở
Quảng Tây, chủ yếu định cư ở ba hòn
đảo: Vu Đầu, Sơn Tâm, Vạn Vĩ thuộc
thị trấn Giang Bình huyện Đông Hưng,
thành phố cảng Phòng Thành thuộc khu
tự trị dân tộc Choang. Ba hòn đảo
này được gọi là “Kinh tộc tam đảo”.
Người Kinh ở đây là người Việt Nam
chủ yếu sống với nghề đánh cá, họ
sang đây từ đầu thế kỷ 16 do đi tìm
ngư trường, phần lớn là người Đồ Sơn
(Hải Phòng). Thời kỳ đầu của nước
CHND Trung Hoa, dân tộc Kinh ở đây
được gọi là “Việt tộc”. Tháng 5 năm
1958, khi thành lập khu tự trị ở
Đông Hưng, Quốc vụ viện Trung Quốc
phê chuẩn tên gọi chính thức “Kinh
tộc”. Trong cộng đồng Kinh tộc ở đây
còn lưu giữ bản hương ước. Hương ước
ghi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 đời
vua Lê Tương Dực (tức năm 1511)
tương đương niên hiệu Gia Tĩnh đời
Minh, người Việt Nam từ Đồ Sơn di cư
sang lập nên một xã hai thôn, các xã
thôn đều có đình, có khoán lệ. Độc
huyền cầm: Hà Thiệu là người đầu
tiên nghiên cứu độc huyền cầm. Người
này cho rằng tuy độc huyền cầm ở
Việt Nam là nhạc khí có tính chất
đại biểu, tượng trưng cho quốc nhạc
Việt Nam, nhưng Việt Nam thời xưa là
thuộc quốc của Trung Quốc, cho nên
độc huyền cầm nên hiểu là từ Trung
Quốc truyền vào Việt Nam. Tôi, người
phát ngôn ở đây cho rằng Hà Thiệu và
tác giả luận văn đều thừa nhận độc
huyền cầm là của người Kinh – người
Việt, nhưng Hà Thiệu lại không muốn
như vậy nên mới nói rằng Việt Nam
thời cổ đại là thuộc quốc của Trung
Quốc, nên độc huyền cầm là từ Trung
Quốc truyền vào Việt nam. Suy diễn
của Hà Thiệu thật khiên cưỡng, học
thuật không thể chấp nhận được.
Người này còn cho rằng, ngay từ đời
Tấn hoặc trước đó, độc huyền cầm đã
tồn tại ở Trung Quốc. Hà Thiệu lại
cho rằng mẫu thai của độc huyền cầm
là “Viên hình quản trang cầm”, tức
là đàn hình ống tròn. Đó lại là một
suy diễn áp đặt khó hiểu. Trong quá
trình “Trung Quốc độc huyền cầm diễn
tấu pháp” (cách diễn tấu độc huyền
cầm Trung Quốc) Hà Thiện kết luận:
1. Đời Tấn, ở Trung Quốc đã có “nhất
huyền cầm” đời Tống vẫn có nhưng
hình hài cho đến nay không ai biết
được. 2. Đời Đường Đức Tông, Trung
Quốc đã du nhập đàn “độc huyền bào
cầm” của nước Phiêu rồi, đàn này là
“Long thủ độc cầm” (đàn 1 dây, đầu
hình rồng). 3. Khoảng năm Gia Tĩnh
đời Minh (1511), người Kinh đã mang
vào đất trung nguyên “đàn bầu” (bào
cầm). Cây đàn mà chúng ta quan tâm
thảo luận hôm nay, tôi nghĩ là cây
đàn bầu dân tộc Kinh, người Việt đưa
vào đất Trung Quốc những năm đầu thế
kỷ 16. Còn các cây đàn “độc huyền
cầm, “nhất huyền cầm” mà các học giả
Trung Quốc dẫn trong sử sách Trung
Quốc là loại đàn một dây kiểu khác,
khác về hình thể, khác về kết cấu và
đương nhiên khác về âm sắc, khác cả
thực âm và bồi âm, Trung Quốc gọi là
“cơ ẩm” và “phiếm âm”. Chúng ta
không thể nhầm lẫn, đánh đồng cây
đàn Bầu Việt Nam với đàn một dây nào
đó của nước ngoài. Học giả Hà Thiệu
chuyển dịch ngôn ngữ “đàn Bầu” sang
chữ Hán là “Bào cầm” là chính xác,
và chỉ có chuyển dịch như thế mới
duy nhất đúng. “Bầu”, “bào” là hộp
khuyếch âm, cộng hưởng, chất liệu là
vỏ quả bầu khô, nhưng không nhất
thiết là bầu, có thể làm bằng gỗ.
Còn “độc huyền cầm”, “độc huyền bào”
hay “nhất huyền cầm” mà các học giả
Trung Quốc dẫn xuất, thì bộ phận
khuếch âm, cộng hưởng là hộp đàn,
thân đàn. Về vấn đề độc huyền cầm
Việt Nam có trước hay Trung Quốc có
trước, Hà Thiệu đưa ra chứng cứ: Một
là văn hóa, văn tự, ngôn ngữ Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung
Quốc. Ngay cả chữ Nôm người Việt Nam
cũng dựa vào chữ Hán để sáng tạo ra
thì việc “bào cầm” được truyền vào
Việt Nam là điều không phải không
thể, trên thực tế e cũng chính là
như vậy. Hà Thiệu đã đúng khi nói
văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu
sắc văn hóa Trung Quốc, nhưng ông ấy
đã lầm khi cho rằng “bào cầm” cũng
từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam.
Ông Hà Thiệu đã “vơ đũa cả nắm”.
Việt Nam tiếp thu văn hóa Trung Quốc
trong tư thế tiếp biến, nghĩa là
tiếp thu và cải biến, tiếp thu có
chọn lọc. Mà như trên tôi đã nói,
đàn bầu (bào cầm) của Việt Nam khác
với “độc huyền cầm” “nhất huyền cầm”
hay “độc huyền bào cầm” của Trung
Quốc không thể truyền vào Việt Nam
mà Trung Quốc không có. Hai là, Hà
Thiện đưa ra chứng cứ thứ hai bằng
cách so sánh tiếng Việt với phương
ngữ Quảng Đông để cho rằng đàn bầu
là từ Trung Quốc truyền vào Việt
Nam, tức là Trung Quốc có trước. Ông
ta nói rằng “đờn độc huyền” đọc lên
nghe na ná tiếng Quảng Đông, còn
‘đờn bầu” ông ta lại không nói na ná
tiếng gì cả mà chỉ nói “đờn” nghĩa
Hán là “cầm”, chữ “bào” là Hán ngữ
trực dịch. Hà Thiệu đã sai – người
Việt Nam nói chung gọi cây đàn bầu
của mình là “đàn Bầu’. Vậy thì hai
chữ “đàn Bầu” và cả ‘đàn độc huyền”
na ná phương ngữ nào của Trung Quốc?
Ba là, Hà Thiệu xem xét từ góc độ
nhạc khúc diễn tấu “độc huyền bào
cầm’ của người Việt Nam. Ông ấy nói
rằng, thập niên 50, 60 thế kỷ trước
người Việt Nam sớm bước lên vũ đài
văn nghệ thế giới, diễn tấu độc
huyền bào cầm, Mạnh Thắng đoạt huy
chương vàng liên hoan thanh niên lần
thứ 24. Mạnh Thắng đã diễn tấu khúc
nhạc cổ “sa mạc”. Việt Nam vốn không
có sa mạc mà lại đề là “sa mạc” cổ
khúc độc huyền cầm. Trong cổ khúc
này, “vũ điệu thức” Trung Quốc thể
hiện từ đầu đến cuối, có cả phong
vận “mã đầu cầm” của Mông Cổ. Hà
Thiệu hoài nghi, cho rằng nó được
truyền từ Trung Quốc sang. Bốn là,
Hà Thiện dẫn chứng cứ nữa, người
Kinh di cư sang Trung Quốc mang theo
khúc nhạc cổ của đàn “độc huyền bào
cầm” từ xưa truyền lại đó là bài đàn
“Cao sơn lưu thủy” xuất xứ từ điển
cố Trung Quốc, chủ âm là “5” – “chủy
điệu thức”, thuộc điệu thức dân tộc
Trung Quốc. Từ đây, Hà Thiện cho
rằng nó có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Một học giả khác của Trung Quốc là
Vương Năng, nhạc sĩ cấp II Quảng
Tây, Giám đốc Nhà nghệ thuật quần
chúng thành phố cảng Phòng Thành khu
tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng
Tây. Ông này khác với Hà Thiệu, cho
rằng độc huyền cầm là nhạc khí dân
tộc Việt Nam, mà người Kinh di cư từ
Việt Nam sang Trung Quốc cho nên sự
xuất hiện của độc huyền cầm ở Trung
Quốc tất nhiên cũng là do người Kinh
đưa vào Trung Quốc. Ông nói tiếp,
độc huyền cầm ban đầu là nhạc khí
đệm khi diễn tấu dân ca, sau đó nó
được phát triển, đời này lưu truyền
lại cho đời khác. Đứng về góc độ
nghiên cứu lịch sử, chúng ta phải
tôn trọng lịch sử độc huyền cầm, coi
nó với dân tộc Kinh là một chỉnh
thể. Trên đây là một vài hiểu biết
về nguồn gốc cây đàn bầu Việt Nam
qua tư liệu nước ngoài./. Nguồn:
vienamnhac.vn.
Sau đây xin dẫn thêm các sử liệu của
Trung Hoa nói về cây đàn bầu Việt
Nam. trích dẫn lại từ: “Tiền sử
Việt Nam: Việt-Nam, Trung Tâm Nông
Nghiệp Lúa Nước và Công Nghiệp Đá
Xưa Nhất Thế Giới” của
BS. Nguyễn Thị Thanh tại
http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=408&Itemid=49/:
… “Các sách cổ khác của
Trung quốc như Giao-Châu Ký, Tam Đô
Phủ, Ngô Lục Địa Lý Chí, Nam Phương
Thảo Mộc Trạng vv. đều chép đại lượt
rằng: “Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn,
dùng lá trà mà uống...”;... “... họ
biết uống nước bằng lỗ mũi...”;...
“...nuôi tằm mà dệt vải...”;
“...dùng đất sét đào sâu trong đất,
thái mỏng phơi khô làm thức ăn quí,
dùng làm quà quí để đi hỏi
vợ...”;... “... dùng đá màu làm men
gốm...”;... “...dùng mu rùa mà bói
việc tương lai...”;... “...họ
dùng một khúc tre dài chừng 1 thước
hơn, một dầu có trụ cao làm tay cầm,
có giây buộc vào trụ nối lại đằng
kia mà làm đàn gọi là độc huyền cầm...”;...
“...họ đem tính tình các con vật mà
so sánh với người, rồi họ truyền
tụng rằng ngày thứ nhất trời sinh
con chuột, ngày thứ hai sinh con
trâu, ngày thứ ba trời sinh con
cọp...(chuyện thần thoại của người
Dao: gốc tích của 12 con giáp của tử
vi ngày nay)”... “Họ biết tìm hiểu
các thức ăn nóng mát (tức thuyết âm
dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào
da thịt lấy máu để trị bệnh (lễ giác
bầu), lấy đá hơ nóng áp vào da thịt
để trị bệnh....”; “... Họ rất quí
các loài chim, biết tập chim biết
nói,... họ có nuôi nhiều chim trĩ
sống trên núi rất đẹp (mà sau nầy
Tàu gọi là phụng hoàng)”. Sử Tàu kể
rằng vào thời nhà Châu bên Tàu dân
Bách Việt quận Việt Thường đem tặng
vua nhà Châu cặp chim trĩ, sau đó
nhờ Tàu dùng xe chỉ nam của Mông Cổ
chỉ đường về”...
Một số khảo sát còn cho biết, các
nước Campuchia, Ấn Độ, Trung Quốc,
Nhật Bản… đều có đàn một dây nhưng
đàn được gắn phím và không sử dụng
âm bồi như đàn một dây Việt Nam:
Đàn Bầu ống bương (Tàn máng) của
người Mường, Việt Nam
Xem thêm:
1. “Tản mạn chuyện đàn Bầu” của Đặng
Hoành Loan trên:
https://tranvankhe-tranquanghai.com/2016/10/21/dang-hoanh-loan-tan-man-chuyen-dan-bau/
2. “Việt Nam – Quê hương đàn Bầu
tại:
http://hatvan.vn/forum/threads/viet-nam-que-huong-dan-bau.13936/
3.
https://tranquanghai1944.com/2016/10/22/tran-quang-hai-dan-bau-cua-viet-nam-hay-trung-quoc-2/
4.
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-hoc-ung-dung/vhh-nghe-thuat/1977-sunjin-dan-bau-cua-nguoi-kinh-o-trung-quoc.html
5.
https://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/dan-bau-la-cua-viet-nam-hay-trung-quoc-n20161026064742929.htm
6.
http://dantri.com.vn/van-hoa/de-nghi-unesco-cong-nhan-dan-bau-viet-nam-la-di-san-the-gioi-20161024143719726.htm
7.
https://tuoitre.vn/can-khang-dinh-chu-quyen-dan-bau-la-cua-viet-nam-1192612.htm
|